Triển Vọng Cho Trại Giống Tôm Năm 2024

Giá thấp và nhu cầu thấp là mối quan tâm chính của ngành tôm vào năm 2023. Liệu những thách thức trên thị trường hiện tại có được cải thiện vào năm 2024?

Giá thấp và nhu cầu thấp vào năm 2023 là mối quan tâm chính của ngành tôm. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng quanh năm, đặc biệt là các trại sản xuất giống.

Geert Rombaut, PM Artemia và Live Food tại INVE Aquaculture cho biết: “Nông dân đang phải đối mặt với những thách thức do biến động giá cả, tác động trực tiếp từ cung và cầu, tình hình kinh tế toàn cầu và sự cạnh tranh, tất cả đều có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của các hoạt động sản xuất giống.”

Đội ngũ kinh doanh của SyAqua cho biết: “Nông dân đang phải đối mặt với giai đoạn mà giá thị trường thấp hơn hoặc bằng chi phí sản xuất. Tình hình này làm nổi bật yêu cầu ngành sản xuất giống phải ưu tiên sự trung thành của khách hàng trong bối cảnh nhu cầu giống giảm, do nông dân thường áp dụng phương pháp thả giống chọn lọc.”

“Nhiều trại giống buộc phải cung cấp tôm giống cho nông dân bằng hình thức mua trước trả sau, nếu không, nông dân sẽ chuyển sang mua giống của trại giống khác có hình thức như vậy. Năm 2023, hình thức mua trước trả sau của các trại giống tại Việt Nam đã trở nên rất phổ biến và Bệnh mờ đục trên hậu ấu trùng tôm (TPD) mới đã đẩy nhiều trại giống phải đóng cửa”, Florian Renault, đồng sáng lập SPF Shrimp Feeds cho biết.

“Đồng thời, nông dân đang tăng cường nỗ lực để duy trì chi phí sản xuất thấp hơn giá tôm, điều này rất quan trọng để tồn tại trong giai đoạn giá tôm thấp kéo dài. Các trại sản xuất giống đã nhận ra những thách thức này và đang cẩn trọng trong việc lập kế hoạch nhập khẩu số lượng tôm bố mẹ để đảm bảo rằng chi phí sản xuất vẫn có thể quản lý được,” SyAqua cho biết.

“Chiến lược thả giống có chọn lọc liên quan đến việc lựa chọn thả giống trong mùa cao điểm và tránh thả nuôi vào những giai đoạn có điều kiện thách thức như mùa mưa. Hơn nữa, các biện pháp quản lý hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tổn thất trong giai đoạn đầu của quá trình sản xuất. Điều này bao gồm việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng nước, đảm bảo môi trường không có mầm bệnh và cung cấp thức ăn có chất lượng cao, dễ tiêu hóa. Những chiến lược này nhấn mạnh sự hợp tác chặt chẽ của cả trại giống và người nuôi nhằm giải quyết sự phức tạp của ngành tôm hiện tại”, SyAqua cho biết.

Tập trung vào sản lượng

Năm 2023, các trại giống thành công nhất đã tập trung vào việc nâng cao sản lượng. “Một số nhà quản lý đã sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào có chi phí thấp hơn hoặc chất lượng thấp hơn, dẫn đến tỷ lệ sống và chất lượng tôm post cũng thấp hơn. Các trại giống tốt nhất đã ưu tiên cải thiện hiệu quả thông qua quản lý tốt hơn và nâng cao tỷ lệ sống. Tỷ lệ sống của tôm post đóng vai trò quan trọng đối với lợi nhuận của các trại sản xuất giống, và việc tập trung sử dụng thức ăn chất lượng cao, cùng với tỷ lệ cho ăn được quản lý chặt chẽ, đã góp phần cải thiện chất lượng nước, tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm. Mặc dù có dấu hiệu cho thấy có sự thừa nguồn cung tôm giống, nhưng những trại giống tốt có tôm giống khỏe mạnh vẫn duy trì và mở rộng thị phần của mình,” Craig L. Browdy, giám đốc nghiên cứu và phát triển tại Zeigler cho biết.

Nông dân đã nhận thức được vai trò quan trọng của con giống chất lượng tốt trong hoạt động nuôi của họ, điều này đang thúc đẩy nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm góp phần vào sức khỏe tổng thể và sự thành công của nghề nuôi tôm. “Vào năm 2023, nhu cầu về dinh dưỡng có giá trị cao, probiotics hiệu quả và con giống chất lượng cao đã tăng lên đáng kể. Sự gia tăng này được thúc đẩy bởi nhu cầu của nông dân về con giống chất lượng tốt có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, vốn đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch nuôi của họ. Việc tập trung vào hệ thống xử lý nước hiệu quả trong cả trại giống và trại nuôi cũng được tăng cường do rủi ro cao về các tác nhân gây bệnh mới lây lan giữa môi trường và hệ thống nuôi, điển hình là Hội chứng tôm chết sớm (EMS),” SyAqua cho biết.

“Các trại sản xuất tôm giống đối mặt với hai thách thức lớn, đó là chi phí và dịch bệnh. Chi phí năng lượng và thức ăn cao, kết hợp với lợi nhuận giảm do giá tôm giảm, đã làm giảm tỷ suất lợi nhuận ở mức rất thấp, thậm chí là âm, tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các trại sản xuất giống. Sản xuất trong môi trường không lý tưởng và nhiệt độ tăng cao đã làm tăng tần suất bùng phát dịch bệnh, gây thiệt hại cho các trại giống và người nuôi. Cả hai vấn đề đều đang được giải quyết bằng cách lựa chọn các đặc điểm sinh sản (để giảm chi phí sản xuất ấu trùng) và tỷ lệ sống ở giai đoạn đầu (khả năng kháng bệnh hoặc trạng thái khỏe mạnh),” Marcos De Donato, nhà khoa học về nhân giống tại Trung tâm Công nghệ Nuôi trồng Thủy sản (CAT) cho biết.

Điểm nổi bật của khu vực

Cách để tăng sản lượng giữa các vùng nuôi tôm là khác nhau. Browdy chia sẻ: “Chúng tôi đã chứng kiến sự hợp nhất của nhiều công ty lớn ở phương Tây và một số ở phương Đông, và trong mọi trường hợp, việc cải thiện quản lý đều được thực hiện thông qua công nghệ hóa”.

Melony Sellars, CEO của Genics cho biết: “Ở Indonesia, chúng tôi nhận thấy có sự đầu tư đáng kể vào các cơ sở sản xuất giống mới từ cả khu vực tư nhân và chính phủ, nhằm cung cấp tôm giống cho các trang trại nuôi thương phẩm. Thách thức là làm thế nào để tạo ra được giá trị độc đáo thu hút nông dân mua tôm post. Có nhiều cách để tạo ra giá trị nhưng tất cả đều bắt đầu bằng việc lắng nghe khó khăn lớn nhất của nông dân là gì và nơi có thể sản xuất ra được con giống giải quyết những vấn đề này. Ecuador cũng có một câu chuyện tương tự, với việc phát triển giá trị độc đáo bằng cách tập trung vào việc tạo ra con giống đa dạng về mặt di truyền và khỏe mạnh, thay vì chỉ đa dạng về di truyền.”

Sellars cho biết: “Tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy những thách thức đáng kể của mầm bệnh mới mang tên Bệnh mờ đục trên hậu ấu trùng tôm (TPD), được cho là do nhiễm khuẩn. Đây là mối lo ngại đáng kể đối với ngành sản xuất giống của Việt Nam và tiếp tục là chủ đề được quan tâm khi các thử nghiệm nhằm phát hiện chính xác mầm bệnh và các phương pháp quản lý được đánh giá và thiết lập.”

Một số nông dân đang điều chỉnh chiến lược nuôi của mình bằng cách chuyển sang nuôi các loài tôm sú, vì họ nhận thấy đây là một lựa chọn đơn giản hơn, dễ dự đoán hơn và có ít vấn đề về dịch bệnh hơn so với tôm thẻ chân trắng. SyAqua cho biết: “Những người nông dân khác đang lựa chọn dòng tôm cân bằng và đưa ra kế hoạch thu hoạch tôm kích cỡ lớn hơn khoảng 15-25 con/kg, điều này cho thấy đây là một cách tiếp cận có lợi nhuận”.

Sellars nói: “Ở Ấn Độ, chúng tôi đang nhận thấy một sự thay đổi nhỏ đối với viêc quay trở lại nuôi tôm sú. Điều này đòi hỏi kỹ năng nuôi có đôi chút khác với tôm thẻ. Tuy nhiên, Ấn Độ đang chiếm ưu thế là nước có nhiều thành viên trong ngành sở hữu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong nhiều năm đối với loài này, trước sự chuyển đổi nhanh chóng sang tôm thẻ L. vannamei.”

Nguồn: Shutterstock

Thức ăn

Giá thức ăn cùng với chi phí nguyên liệu tăng cao, vẫn là mối quan tâm lớn của người nuôi tôm.

Browdy nói: “Sự không ổn định của các nguồn protein truyền thống đã khiến việc quản lý chi phí nguyên liệu ngày càng khó khăn hơn. Triển vọng cho năm 2024 rất khó dự đoán vì có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến giá lúa mì, đậu nành, bột cá và các nguồn nguyên liệu đầu vào khác. Nhiều nghiên cứu khoa học đã được tiến hành để tìm kiếm nguồn nguyên liệu thay thế quan trọng. Và thành công đã xuất hiện, bao gồm các nguồn axit béo không bão hòa cao để thay thế dầu cá với chi phí ngày càng đắt đỏ. Sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi và nghiên cứu khoa học mạnh mẽ sẽ tiếp tục thúc đẩy những cải tiến trong chiến lược xây dựng công thức thức ăn thay thế. Các trang trại được quản lý tốt nhất sử dụng thức ăn hiệu quả nhất cuối cùng sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất vào năm 2024 và hơn thế nữa.”

SyAqua cho biết: “Sự hợp nhất trong ngành tôm sẽ tiếp tục, điều này sẽ gây thêm áp lực lên các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi để tham gia vào các nỗ lực cải cách nhằm duy trì giá cả cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh giá tôm thấp kéo dài mà các nhà lãnh đạo ngành dự đoán sẽ kéo dài đến năm 2024. Trong năm 2024, nhiều khả năng giá thức ăn sẽ ổn định khi sản lượng bột cá được phục hồi. Khi đó, giá thức ăn có thể sẽ giảm dần. Tuy nhiên, những thách thức đang diễn ra trong ngành và nhu cầu của các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi để điều hướng sự cân bằng mong manh giữa hiệu quả chi phí và chất lượng dự kiến sẽ vẫn còn tồn tại.”

Trong thời điểm kinh tế khó khăn, ý tưởng đầu tiên để giảm chi phí sản xuất là thay thế các sản phẩm có giá cao như thức ăn. Khi làm như vậy, cần lưu ý hai điểm quan trọng.

Eva Werbroeck, chuyên gia dinh dưỡng tôm tại INVE Aquaculture, đã chia sẻ: “Khi đánh giá chi phí sản xuất, cần xem xét tất cả các khía cạnh chi phí. Điều này không chỉ bao gồm chi phí nguyên liệu đầu vào, mà còn liên quan đến chi phí nauplii, năng lượng, nhân công, vận chuyển, khấu hao, và chi phí cố định. Việc sử dụng thức ăn có giá cao nhưng chất lượng và dinh dưỡng tốt hơn giúp thu hồi vốn một cách hiệu quả hơn. Ngay cả khi sản lượng tăng, điều này có thể giảm chi phí tổng cộng (đặc biệt đối với việc sản xuất trên 1.000 con tôm giống). Kết quả là EBITDA sẽ tăng, làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất giống. Tăng trưởng nhanh hơn cũng giúp rút ngắn chu kỳ nuôi, giảm số ngày nuôi và chi phí liên quan, đồng thời giảm nguy cơ tôm chết trong giai đoạn cuối vụ.”

Werbrouck cho biết: “Việc thay thế thức ăn hoặc bất kỳ sản phẩm nào khác phải đi kèm với việc đánh giá kỹ lưỡng về chất lượng tôm post. Điều này đòi hỏi sự theo dõi chặt chẽ vì chất lượng tôm post thường được biểu hiện trong các giai đoạn nuôi thương phẩm. Những thay đổi về sản phẩm và quy trình không nên diễn ra đột ngột, vì những quyết định sai lầm trong quá trình sản xuất tại trại giống sẽ không thể sửa chữa và phải quản lý được những thiệt hại xảy ra về mặt uy tín”.

Theo Eric De Muylder, giám đốc CreveTec, không chỉ giá thức ăn công nghiệp cao, mà cả giá Artemia và tảo chất lượng tốt cũng là vấn đề đáng lo ngại.

SyAqua cho biết: “Chúng tôi đề xuất một cách tiếp cận toàn diện kết hợp di truyền và dinh dưỡng, không chỉ nhằm mục đích nâng cao khả năng sống mà quan trọng nhất là tối ưu hóa kết quả. Điều này mang lại lợi tức đầu tư tốt hơn, nhấn mạnh hiệu quả của việc sử dụng thức ăn chất lượng cao.”

Dịch bệnh

Mối quan tâm lớn đối với phân khúc tôm giống vào năm 2023 là sự xuất hiện liên tục của Vibrios có độc lực cao, ảnh hưởng đến cả trại sản xuất giống, trại ương và trại nuôi tôm. “Tài liệu khoa học cho thấy tôm có xu hướng chết do dịch bệnh trong giai đoạn đầu có thể bắt nguồn từ các loài Vibrio gây bệnh sản sinh ra các độc tố khác nhau, dẫn đến tỷ lệ chết cao. Ở phương Tây, Vibrios sản xuất độc tố PirA và PirB đã được xác định là nguyên nhân gây tỷ lệ chết cao, trong khi ở châu Á, Vibrio parahaemolyticus sản xuất một loại độc tố khác được cho là có liên quan đến tỷ lệ chết của ấu trùng”, Browdy cho biết.

Tỷ lệ chết liên quan đến Vibrio luôn là mối quan tâm lớn đối với các nhà quản lý trại giống. Browdy cho biết: “Mặc dù nhận thấy hiệu quả giảm dần theo thời gian, nhưng việc sử dụng kháng sinh để kiểm soát mầm bệnh vẫn tiếp tục duy trì ở nhiều trại giống. Thuốc kháng sinh và thay nước có thể làm giảm lượng Vibrios gây bệnh trong một khoảng thời gian, nhưng nó sẽ tạo ra không gian cho sự tái sinh của vi khuẩn, thường là những loài mà người quản lý đang cố gắng kiểm soát. Các trại giống được quản lý tốt thường tập trung vào vấn đề vệ sinh và sử dụng thức ăn sống chất lượng cao, được nuôi cấy và chọn lọc cẩn thận để đảm bảo số lượng Vibrio ở mức thấp nhất, nhằm kiểm soát sự xâm nhập của mầm bệnh. Những nỗ lực này được kết hợp với việc sử dụng hiệu quả probiotics và quản lý thức ăn, để đảm bảo chất lượng nước tốt, quần thể vi sinh vật đa dạng và ổn định. Các công nghệ mới kết hợp probiotic hiệu quả vào thức ăn thay thế Artemia vi nang đã được chứng minh là cải thiện tỷ lệ sống tổng thể.”

“Ở nhiều trại giống, nỗ lực liên tục được thực hiện để áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhằm quản lý mầm bệnh. Các chiến lược như sử dụng thuốc kháng sinh và thay nước đã được thực hiện để giảm thiểu vi khuẩn Vibrios gây bệnh trong một khoảng thời gian cụ thể. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là những hoạt động như vậy có thể vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi khuẩn sinh sản nhanh chóng, bao gồm cả những loài mà người quản lý đang tìm cách quản lý,” Rombaut nói.

Olivier Decamp, Giám đốc R&D & Giám đốc phát triển kinh doanh tại INVE Aquaculture cho biết: “Việc phát triển các quy trình sử dụng các chủng vi khuẩn an toàn được chọn lọc để cạnh tranh với các mầm bệnh tiềm ẩn đã cải thiện đáng kể môi trường nuôi. Việc không thay nước và sử dụng probiotic đã mang lại hiệu quả đáng kẻ không chỉ trước và trong quá trình nuôi mà còn trong suốt quá trình sản xuất và thu hoạch.”

​Các giải pháp an toàn sinh học tiên tiến là một giải pháp thay thế tốt và vào năm 2023, các trại giống đã chứng kiến nhu cầu tăng mạnh mẽ. Andrew Shinn, chuyên gia kỹ thuật toàn cầu tại INVE Aquaculture cho biết: “Xu hướng này xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đối với việc chống lại các mối đe dọa như nhiễm Vibrio. Các trại giống hiện ưu tiên các biện pháp an toàn sinh học mạnh mẽ trong tất cả các giai đoạn sản xuất, từ giai đoạn bố mẹ đến giai đoạn thương phẩm. Các sản phẩm chính bao gồm tôm không chứa mầm bệnh cụ thể (SPF) và tôm kháng mầm bệnh cụ thể (SPR), giải pháp thức ăn cải tiến, hệ thống xử lý nước bằng ozone và tia cực tím, hệ thống lọc UF, bộ lọc khí HEPA và probiotic để cân bằng vi khuẩn, tập trung vào kiểm soát mầm bệnh, duy trì chất lượng nước và xử lý sinh học. Những giải pháp này rất quan trọng trong việc đảm bảo sức khỏe, năng suất và tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản.”

Các trại giống đã ưu tiên các biện pháp an toàn sinh học mạnh mẽ trong tất cả các giai đoạn sản xuất, từ giai đoạn bố mẹ đến giai đoạn thương phẩm. “Cho dù bạn đang nhân giống tôm bố mẹ SPF từ Mỹ, Thái Lan, Indonesia hay bất kỳ nơi nào khác, tôm bố mẹ từ ao nuôi hay những con vẫn được thu thập từ tự nhiên, xu hướng toàn cầu là tăng cường chú ý đến từng chi tiết để đảm bảo chúng sinh ra thế hệ tiếp theo khỏe mạnh và nếu có thể là không có mầm bệnh. Thông điệp rõ ràng là mầm bệnh có thể truyền từ bố mẹ sang con cái của chúng như một cơ chế lây truyền và ngành của chúng ta đang hành động trên quy mô toàn cầu để cải thiện sức khỏe và chất lượng tôm post,” Melony Sellars, CEO của Genics cho biết.

Đối với những trại giống sử dụng thức ăn sống cho tôm bố mẹ, xu hướng là tìm nguồn thức ăn từ các nhà cung cấp đáng tin cậy. Renault cho biết: “Chúng tôi nhận thấy nhu cầu cao về giun nhiều tơ SPF để sử dụng làm thức ăn cho tôm bố mẹ (cả sú và thẻ), đặc biệt là ở Ấn Độ. Hầu hết tôm bố mẹ được sử dụng trong nước đều có nguồn gốc từ Mỹ và được chứng nhận SPF. Những người chủ trại giống và kỹ thuật viên hiện nay thừa nhận rằng một trong những nguồn lây nhiễm đầu tiên gây nhiễm EHP và gần đây hơn là Bệnh mờ mục đục trên hậu ấu trùng, chủ yếu đến từ thức ăn sống, đặc biệt là các loại giun nhiều tơ đánh bắt tự nhiên và nuôi tại địa phương.”

Sellars nói: “Về mặt lai tạo, trong suốt năm 2023, chúng tôi nhận thấy nhu cầu mạnh mẽ về chọn lọc gen của những động vật tăng trưởng tốt, đồng thời thể hiện mức độ chống chịu với các điều kiện môi trường và mầm bệnh đầy thách thức. Mong muốn về những động vật có khả năng chịu đựng cao nhưng vẫn tăng trưởng tốt đã thúc đẩy nhu cầu về các nghiên cứu chất lượng cao về kiểu hình và so sánh môi trường của các dòng gen khác nhau để liên kết các kiểu gen.”

“Chúng tôi cũng nhận thấy sự lạm dụng trong việc kiểm tra nhanh tôm post tại chỗ trước khi thả vào hệ thống nuôi thương phẩm bằng các bộ dụng cụ và phương pháp không phù hợp với mục đích. Điều này có nghĩa là một bộ dụng cụ hoặc phương pháp có thể được thiết kế để phát hiện mầm bệnh ở động vật có dấu hiệu lâm sàng, trong trường hợp này tải lượng mầm bệnh và mẫu cho kết quả dương tính là từ trung bình đến cao. Tuy nhiên, có thể có sự hiểu nhầm trong quá trình quảng bá, các bộ dụng cụ này cũng đang được sử dụng để phát hiện mầm bệnh sớm trước khi có dấu hiệu lâm sàng, nhưng chúng không phù hợp cho mục đích này và không thể phát hiện mức độ rất thấp của mầm bệnh trong tôm post. Kết quả cuối cùng là dữ liệu xét nghiệm tôm post âm tính có khả năng không đáng tin cậy và nông dân có thể gặp rủi ro khi thả những cá thể thực sự mang mầm bệnh tàn phá về mặt thương mại. Giáo dục ngành về việc sử dụng đúng mục đích các phương pháp thử nghiệm khác nhau là cách giúp giảm bớt thách thức này đối với ngành nuôi tôm toàn cầu,” Sellars nói.

Nguồn: Lucía Barreiro

Sự gia tăng nhiệt độ

Biến đổi khí hậu và nhiệt độ tăng cao có thể ảnh hưởng đến các trang trại nuôi tôm, đặc biệt là ở một số khu vực như Ấn Độ. SyAqua cho biết: “Một số trại giống ở Ấn Độ bị ảnh hưởng đáng kể trong mùa hè nóng bức do nhiệt độ cao hơn bình thường, ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch. Điều này dẫn đến những thách thức như giảm giao phối, sản lượng ấu trùng thấp hơn và đôi khi làm giảm chất lượng ấu trùng. Trong quá trình sản xuất tôm post, nhiệt độ tăng cao gây khó khăn trong quản lý, thúc đẩy hoạt động của ấu trùng và dẫn đến tăng tiêu thụ và bài tiết thức ăn. Chất hữu cơ được tạo ra từ các hoạt động này đã tạo điều kiện cho Vibrio nhân lên nhanh hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và tỷ lệ sống của tôm giống. Các trại giống cần chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị kiểm soát nhiệt độ tốt để giải quyết những thách thức này.”

“Ngược lại, ở cấp độ trang trại, tác động ít nghiêm trọng hơn do lượng nước đáng kể trong ao giúp ổn định nhiệt độ. Mặc dù đối mặt với những thách thức này, mùa nóng vẫn tiếp tục thuận lợi cho nuôi tôm thẻ chân trắng. Điều đáng chú ý là tác động gián tiếp của nhiệt độ cao là độ mặn cũng tăng cao đồng thời, có thể dẫn đến sự tăng trưởng chậm và mất cân bằng chất lượng nước. Những tác động này nêu bật sự cần thiết phải có chiến lược quản lý toàn diện để giải quyết sự tương tác phức tạp của các yếu tố môi trường trong nuôi tôm”, SyAqua cho biết.

Triển vọng

Liệu những thách thức trên thị trường tôm hiện tại có được cải thiện vào năm 2024? “Sự biến động về cung và cầu luôn luôn tuần hoàn. Dự kiến sẽ có sự biến động về mức độ sản xuất, tỷ lệ tiêu thụ và sự thay đổi liên quan đến giá cả. Những nhà sản xuất hiệu quả nhất sẽ duy trì được lợi nhuận tốt nhất ở bất kỳ thị trường nào,” Browdy nói.

De Muylder cho biết: “Cần khuyến khích thúc đẩy tiêu dùng trong nước thay vì chỉ tập trung vào xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá tôm giảm không phải là do nhu cầu thấp mà là do sản xuất tăng cao. Vấn đề còn lại là chất lượng. Hiện nay có rất ít sự kiểm soát về chất lượng của tôm do ngày càng nhiều người coi tôm như một loại hàng hóa.”

“Trong mỗi cuộc khủng hoảng đều ẩn chứa một cơ hội. Mặc dù năm 2024 có thể tiếp tục đặt ra những thách thức cho tất cả các bên liên quan trong ngành tôm, nhưng đây cũng được xem là một cơ hội để nông dân đánh giá lại chiến lược thả nuôi và lựa chọn di truyền của họ. SyAqua dự đoán sẽ có sự thay đổi trong tư duy của nông dân, những người trước đây ưu tiên lợi nhuận thay vì quản lý chi phí do giá tôm cao, giờ đây sẽ hướng sự tập trung đến việc giữ chi phí thấp để duy trì hoạt động kinh doanh của họ. Sự chuyển đổi này ngụ ý một sự thay đổi tiềm năng hướng tới một chiến lược nuôi tôm khoa học hơn. Thay vì chỉ tập trung vào các số liệu như Tăng trưởng trung bình hàng ngày (ADG), có thể sẽ có sự chú trọng nhiều hơn vào độ tin cậy và tính đồng đều của sản lượng. SyAqua tin rằng việc tăng tỷ lệ sống và giảm Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) sẽ là những yếu tố chính giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, mang lại cơ hội đáng kể để cải thiện trong ngành,” SyAqua cho biết.

“Những trang trại được quản lý tốt nhất sẽ tiếp tục giảm chi phí thông qua việc kiểm soát nguồn nguyên liệu đầu vào tốt hơn. Những nhà sản xuất hiệu quả nhất sẽ tiếp tục giảm FCR thông qua quản lý quần thể tốt hơn, cùng với việc sử dụng máy cho ăn tự động và thức ăn chất lượng cao. Cho ăn hiệu quả là chìa khóa để quản lý môi trường nuôi, kiểm soát chi phí và cải thiện tính bền vững cả về môi trường và tài chính,” Browdy nói.

“Nhiều hoạt động nuôi tôm trên khắp thế giới đang tạm ngừng, đã tạm ngừng, hoặc đang xem xét việc tạm ngừng do giá tôm hiện tại. Chúng tôi đang thực hiện một quy trình vệ sinh tự áp đặt quy mô lớn. Về lý thuyết, điều này sẽ tạo ra hiệu suất tích cực khi nông dân bắt đầu nuôi tôm trở lại, với tác nhân gây bệnh giảm và hiệu suất sản xuất tăng cao. Liệu có cơ hội tích cực nào xảy ra trong thời điểm đầy thách thức này không?” Sellars kết luận.

Theo Hatchery Feed and Management

Nguồn: https://hatcheryfm.com/news/editors-picks/hatchery-outlook-2024-shrimp/

Biên dịch: Huyền Thoại – Bình Minh Capital 

Xem thêm:

You cannot copy content of this page