Đánh Giá Tính Biến Động Về Chất Lượng Và Thành Phần Dinh Dưỡng Của Các Dòng Tôm Thẻ Chân Trắng Thái Bình Dương

Kết quả cho thấy có một số biến đổi cụ thể giữa các dòng tôm thẻ chân trắng

Tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) là một trong những loài phổ biến nhất trong ngành nuôi trồng thủy sản và chiếm ưu thế trên toàn thế giới. Với hương vị thơm ngon, chất lượng thịt vượt trội cùng các đặc tính dinh dưỡng và dễ chế biến, chúng đã trở thành một trong những sản phẩm thủy sản có giá trị thương mại nhất trên toàn cầu. L. vannamei là loài tôm euryhaline (thích nghi với nhiều độ mặn khác nhau) thích hợp để nuôi mật độ cao với các độ mặn đa dạng.

        Nghiên cứu này đã đánh giá sự khác nhau giữa các dòng thẻ L. vannamei được nuôi trong điều kiện ao nuôi có kiểm soát

Nghiên cứu này đã đánh giá sự khác nhau giữa các dòng thẻ L. vannamei được nuôi trong điều kiện ao nuôi có kiểm soát. Kết quả cho thấy có sự biến đổi cụ thể theo từng chủng, điều này có thể cung cấp một tài liệu tham khảo mua hàng tiềm năng cho người tiêu dùng. Ảnh của Fernando Huerta.

Trung Quốc có được các giống tôm bố mẹ cải tiến nhờ vào số lượng tôm nhập khẩu. Một số dòng tôm mới cũng được phát triển ở quốc gia này. Các nghiên cứu thích hợp ở thời điểm hiện tại chủ yếu tập trung vào việc lựa chọn quỹ gen (nguồn gen sống). Kết quả của một số nghiên cứu đã ghi nhận rằng có sự khác nhau về thành phần dinh dưỡng giữa các dòng thẻ L. vannamei.

Thành phần dinh dưỡng là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá quỹ gen ở tôm. Đồng thời, nó cũng là cơ sở cho sự phát triển cũng như cải tiến nguồn gen. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thành phần dinh dưỡng và chất lượng của tôm thẻ chân trắng bao gồm các thông số kỹ thuật, điều kiện độ mặn, môi trường nuôi và mô hình sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đã đánh giá các loài tôm có cùng chủng trong các điều kiện khác nhau. Việc xác định thành phần dinh dưỡng của các chủng khác nhau trong cùng điều kiện sản xuất có thể cung cấp những thông tin dinh dưỡng mới đến người tiêu dùng.

Bài báo này được chỉnh sửa và tóm tắt từ bài báo gốc (theo Tiến sĩ Wang và cộng sự năm 2021. Đánh giá chất lượng và thành phần hoá học của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương Litopenaeus vannamei: Ảnh hưởng đến các thành phần dinh dưỡng trong thịt. Thực phẩm và Khoa học Dinh dưỡng chương 9 – đã đánh giá và so sánh các thành phần dinh dưỡng cơ bản, thành phần axit amin (thủy phân và tự do), và thành phần axit béo của bốn chủng thẻ L. vannamei.

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu đã thực hiện thử nghiệm cho ăn trong 90 ngày tại một trang trại nuôi tôm ở Binzhou, Trung Quốc. Tôm giống – có nguồn gốc từ các nhà cung cấp thương mại Universal từ Indonesia, chủng địa phương Kehai số 1, KH-1, chủng Syaqua từ Thái Lan, và chủng địa phương (chủng thông thường) khác – với trọng lượng ban đầu là 0,63 ± 0,02 gam, được nuôi tạm thời và thích nghi trong 7 ngày và sau đó thả vào 12 ao thí nghiệm 30 m3 để tạo thành bốn nhóm nghiệm thức thực hiện trong ba lần trước khi bắt đầu thử nghiệm. Mật độ thả khoảng 300 con / m2. Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống sót giữa các nghiệm thức (78,42 ± 1,29 %).

Nước biển trong ao được lọc bằng cát, và điều kiện chất lượng nước được duy trì ở 29 ± 1 0C, pH ở mức 7,5 – 8,0, oxy hòa tan> 5.0 mg/l và độ mặn ở mức 29 – 31 ppt. Việc bổ sung vi khuẩn được thực hiện bảy ngày một lần. Tôm được cho ăn với chế độ ăn thương mại (40% protein thô, 8% lipid thô) có nguồn gốc từ một công ty thức ăn chăn nuôi ở địa phương. Tất cả các nhóm tôm trong thí nghiệm được cho ăn hai lần mỗi ngày ở mức 6 – 10 % trọng lượng cơ thể với khẩu phần được điều chỉnh sau 15 ngày. Chế độ ăn được thực hiện thủ công (rải bằng tay) cho đến khi thấy tôm đã ăn đủ lượng thức ăn và tỷ lệ cho ăn được chọn để đảm bảo tôm đạt được cảm giác no mà lượng thức ăn cho tôm không bị quá mức. Nước biển ngọt được thay ở mức 10% sau khi cho ăn.

Sau khi kết thúc thử nghiệm cho ăn kéo dài 90 ngày, tôm trong mỗi ao được lấy mẫu 24 giờ sau lần cho ăn cuối cùng. 30 con tôm được chọn ngẫu nhiên từ mỗi ao (20,10 ± 2,30 gam) để phân tích các thành phần gần đúng. Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm và cách nuôi dưỡng; thu thập mẫu và phân tích nhanh; và các phân tích thống kê, vui lòng tham khảo bài báo gốc.

Kết quả và thảo luận

Nhìn chung, kết quả của nghiên cứu cho thấy cả bốn chủng tôm đều có mức protein cao (21,1- 22,3 %) và ít chất béo (0,8 – 1,1 %) khi được nuôi trong điều kiện và thức ăn giống nhau. Chủng Universal có hàm lượng protein và chất béo cũng như hàm lượng axit amin thiết yếu cao nhất (147,97). Chủng Syaqua có hàm lượng axit béo không bão hòa đa và PUFAs cao nhất (44,88%). Chủng KH-1 có hàm lượng axit amin tự do FAA cao nhất (2,68%).

Thành phần gần đúng của bốn chủng tôm được thể hiện trong Bảng 1. Hàm lượng protein thô dao động từ 21,1 – 22,3 %, hàm lượng chất béo thô dao động từ 0,8 – 1,1 %, và không có sự khác biệt về tro thô giữa các chủng. Những kết quả của nghiên cứu này phù hợp với những kết quả đã được báo cáo ở những nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau, họ đã phát hiện ra rằng hàm lượng protein và chất béo thô giữa các chủng tôm tương đối đồng đều.

Thành phần dinh dưỡng

Thành phần gần đúng của bốn chủng tôm được nghiên cứu (trung bình ± SD)

Bảng 1: Thành phần gần đúng của bốn chủng tôm được nghiên cứu (trung bình ± SD) (g/100g trọng lượng ướt). Các giá trị trong cùng một cột với các chữ cái khác nhau thể hiện sự khác nhau đáng kể (p <0,05)

Trong số bốn chủng tôm được thử nghiệm trong nghiên cứu, chủng Universal có hàm lượng protein thô cao nhất (22,3%). Hàm lượng chất béo thô thấp nhất ở chủng tôm địa phương. Hàm lượng tro thô thấp nhất cũng được nhận thấy ở chủng địa phương và chủng KH-1. Nhìn chung, dựa trên các phân tích thành phần hóa học, các nhà nghiên cứu đã xác nhận rằng bốn chủng tôm được thử nghiệm đều có sự cân bằng về chất dinh dưỡng và mức protein.

Về cấu hình axit amin thủy phân (HAA) của bốn chủng tôm được đánh giá, axit glutamic là axit amin phong phú nhất trong tất cả các chủng, tiếp theo là lysine, axit aspartic và leucine. Bốn axit amin này chiếm 41,34 – 42,64 % tổng số axit amin (TAA). Chủng KH-1 có lượng TAA cao nhất ở mức 82,07 g/100g (trọng lượng khô, DW), và hàm lượng các axit amin thiết yếu (EAA) của chủng KH-1 cũng cao. Tỷ lệ EAA / TAA dao động từ 38,22 % (chủng địa phương) đến 38,79 % (chủng Syaqua).

Giá trị dinh dưỡng của thức ăn phụ thuộc vào thành phần và hàm lượng axit amin. Đối với con người, thực phẩm có hàm lượng axit amin cao hơn có thể cung cấp giá trị dinh dưỡng tốt hơn. TAA và EAA cũng là những chỉ số quan trọng trong việc đánh giá giá trị dinh dưỡng của sản phẩm thủy sản. Bốn chủng tôm được đánh giá có hàm lượng axit glutamic dao động từ 172,8 mg/g (KH-1) đến 176,6 mg/g (Syaqua) protein thô. Những giá trị của nghiên cứu này cao hơn đáng kể so với những giá trị đã được báo cáo ở những nghiên cứu trước đối với nhiều loài tôm, cá và động vật giáp xác khác.

Thành phần quan trọng của thịt có thể ảnh hưởng đến hương vị của động vật thủy sản chính là các axit amin tự do (FAA). Đặc biệt là axit glutamic, glycine, alanin và axit aspartic, chúng được cho là có thể ảnh hưởng đáng kể đến hương vị của tôm. Mỗi axit amin đều có một hương vị riêng, sự đóng góp của hương vị phụ thuộc vào giá trị hoạt độ vị (TAV). TAV là tỷ lệ giữa chất điều vị có trong mẫu và giá trị ngưỡng của nó. Tuy nhiên, TAV không xem xét sự tương tác giữa các thành phần, nhưng có thể có tác dụng hiệp đồng đến mùi vị của thực phẩm. Trong số bốn chủng tôm được đánh giá, giá trị TAV đáng kể được quan sát thấy ở các axit amin axit glutamic, glycine, valine, methionine, lysine và histidine. Các đánh giá cảm quan bổ sung ở những dòng tôm này được dự tính cho những nghiên cứu trong tương lai.

Các mô hình về hàm lượng FAA tương tự nhau giữa các chủng, ngoại trừ chủng địa phương (chủng thường). Glutamine là chất đóng góp hàng đầu cho hương vị với TAV là 14,33. TAV của alanin và glycine lần lượt là 7,83 và 3,69, chúng cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến hương vị của thịt tôm. Các mô hình chỉ ra rằng KH-1 sẽ có vị tươi và ngọt hơn so với các chủng khác.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy hình dạng và hàm lượng axit béo (FA) của bốn chủng tôm là khác nhau. Hình dạng của tất cả các chủng đều bị ảnh hưởng bởi các axit béo không bão hòa đa (PUFA), ngoại trừ chủng địa phương, tiếp theo là axit béo bão hòa (SFAs) và axit béo không bão hòa đơn (MUFAs). Trong số các SFA, axit palmitic là chiếm ưu thế nhất, kế đến là axit stearic. MUFA chiếm ưu thế là axit oleic (C18: 1). Các PUFA chiếm ưu thế là axit linoleic (LA); axit docosahexaenoic (DHA); và axit eicosapentaenoic (EPA).

Trong số các FA có giá trị thì DHA và EPA đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các bệnh viêm và tim mạch. Chúng có tác dụng làm giảm chất béo trung tính trong huyết thanh trong cơ thể của động vật thuỷ sản. Trong kết quả của nghiên cứu, EPA và DHA có hàm lượng cao vừa phải ở cả bốn chủng tôm, đặc biệt là ở chủng KH-1. Tuy nhiên, hàm lượng EPA trong nghiên cứu này thấp hơn so với báo cáo của nghiên cứu trước ở L. vannamei (11,5 – 13,7 g / 100 FA), trong khi hàm lượng DHA trong nghiên cứu trước (dao động từ 8,9 – 10,4 g / 100 g FA) lại thấp hơn so với hàm lượng được báo cáo trong nghiên cứu này.

Quan điểm

Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng có sự biến đổi trong thành phần hóa học của các dòng tôm L. vannamei được đánh giá trong điều kiện sản xuất ao nuôi được kiểm soát. Hàm lượng protein và chất béo cao nhất được nhận thấy ở chủng Universal nhập khẩu. Ngoài ra, tất cả hàm lượng EAA của chủng Universal cũng cao nhất so với các chủng còn lại. Chủng Syaqua nhập khẩu có hàm lượng PUFAs cao nhất và chủng KH-1 là chủng cao nhất về các thành phần kích thích vị giác của FAA.

Theo: Tiến sĩ Xiao Li, Tiến sĩ Ying Wang, Tiến sĩ Hongyan Li, Tiến sĩ Xiaodong Jiang, Tiến sĩ Lei Ji, Tiến sĩ Tianhong Liu và Tiến sĩ Yuanqin Sun.

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/evaluating-pacific-white-shrimp-strains-for-variability-in-quality-nutritional-composition/

Biên dịch: Huyền Thoại – Công ty TNHH PTTS Bình Minh

Xem thêm:

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

You cannot copy content of this page