Phần 2: Ứng Dụng Rong Biển Đỏ Catenella repens Trong Việc Tạo Ra Sinh Kế Thay Thế Trong Bối Cảnh Nền Kinh Tế Xanh

Sự thay đổi các thông số môi trường

Nhiệt độ nước bề mặt trong thời gian nghiên cứu dao động từ 29,0℃ đến 29,6℃ với giá trị trung bình là 29,4 ± 0,22℃ ở cả hai ao nuôi (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.4). Độ mặn nước mặt dao động từ 3,72 psu đến 4,45 psu với giá trị trung bình là 4,35 ± 0,2 psu ở ao đối chứng và 4,08 ± 0,16 psu ở ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.5). Độ pH mặt nước dao động từ 7,10 đến 8,12 với giá trị trung bình là 7,88 ± 0,35 ở ao đối chứng và 8,08 ± 0,03 ở ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.6). Giá trị DO dao động từ 3,08 mg/l đến 5,58 mg/l với giá trị trung bình là 4,66 ± 0,77 mg/l trong ao đối chứng và 5,47 ± 0,12 mg/l trong ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.7). Độ trong của nước trong thời gian nghiên cứu dao động từ 14,35 cm đến 27,5 cm với giá trị trung bình là 17,02±2,02 cm ở ao đối chứng và 24,3 ± 2,58 cm ở ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.12). Giá trị dinh dưỡng (nitrat, photphat và silicat) dao động từ 15,12 µgat/l đến 21,33 µgat/l với giá trị trung bình là 19,5 ± 1,21 µgat/l trong ao đối chứng và 16,6 ± 1,01 µgat/l trong ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.8) đối với nitrat, từ 1,53 µgat/l đến 2,28 µgat/l với giá trị trung bình là 2,22±0,05 µgat/l trong ao đối chứng và 2,0 ± 0,29 µgat/l trong ao ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.9) đối với photphat và từ 59,63 µgat/l đến 66,2 µgat/l với giá trị trung bình là 64,01±2,23 µgat/l ở ao đối chứng và 63,32±2,67 µgat/l ở ao ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.10) đối với silicat. Nồng độ Chl a trong thời gian nghiên cứu dao động từ 0,97 mg/ m3 đến 2,66 mg/ m3 với giá trị trung bình là 1,74±0,51 mg/ m3 trong ao đối chứng và 1,92 ± 0,16 mg/ m3 trong ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.11). Carbon hữu cơ của đất đáy ao trong thời gian nghiên cứu dao động từ 0,97 % đến 1,35 % với giá trị trung bình là 1,18 ± 0,16 % ở ao đối chứng và 1,07 ± 0,10 % ở ao thí nghiệm (Bảng 7.3.5 và Hình 7.3.13).

BẢNG 7.3.5: Sự biến đổi các thông số lý hóa của ao nuôi

Hình 7.3.4: Sự biến đổi nhiệt độ nước mặt 2 tuần/ lần ở ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.5: Sự biến đổi độ mặn nước mặt 2 tuần/ lần ở ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.6: Sự biến đổi pH nước mặt 2 tuần/ lần ở ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.7: Sự biến đổi oxy hòa tan 2 tuần/ lần trong ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.8: Sự biến đổi nồng độ nitrat 2 tuần/ lần trong ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.9: Sự thay đổi nồng độ phốt phát 2 tuần/ lần trong ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.10: Sự thay đổi nồng độ silicat 2 tuần/ lần trong ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.11: Sự biến đổi nồng độ chất diệp lục 2 tuần/ lần trong ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.12: Sự thay đổi độ trong của nước 2 tuần/ lần ở ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Hình 7.3.13: Sự biến đổi hàm lượng cacbon hữu cơ trong đất 2 tuần/ lần ở ao đối chứng (C) và ao thí nghiệm (E)

Thảo luận

Chất lượng thức ăn

Sự tăng trưởng, sức khỏe và sinh sản của cá và các động vật thủy sinh khác phụ thuộc vào việc cung cấp đủ chất dinh dưỡng thông qua thức ăn cả về chất lượng và số lượng, bất kể hệ thống nuôi (Kader và cộng sự, 2005). Do đó, việc cung cấp đầu vào (thức ăn, phân bón, v.v.) phải được đảm bảo để đáp ứng nhu cầu về chất dinh dưỡng và năng lượng của các loài nuôi và đạt được mục tiêu sản xuất của hệ thống (Hasan, 2001). Sự cân bằng dinh dưỡng của thức ăn ảnh hưởng đến việc sử dụng thức ăn và tăng trưởng của cá. Điều rất cần thiết là phải biết các yêu cầu dinh dưỡng đặc biệt về protein, lipid và năng lượng để các loài cá tăng trưởng tối ưu cũng như xây dựng khẩu phần ăn cân bằng. Mức protein và năng lượng trong khẩu phần ăn được biết là có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và thành phần cơ thể của cá (Lovell, 1989). Mức protein và năng lượng không phù hợp trong thức ăn làm tăng chi phí sản xuất cá và làm suy giảm chất lượng nước. Năng lượng không đủ trong khẩu phần ăn gây lãng phí protein do tỷ lệ protein được sử dụng làm năng lượng trong khẩu phần ăn tăng lên và amoniac được tạo ra có thể làm giảm chất lượng nước (Phillips, 1972; Prather và Lovell, 1973; Shyong và cộng sự, 1998). Ngược lại, năng lượng dư thừa trong khẩu phần ăn có thể dẫn đến tăng tích tụ lipid trong cơ thể và giảm tăng trưởng do thiếu chất dinh dưỡng cần thiết cho tăng trưởng (Daniels và Robinson, 1986; Van der Meer và cộng sự, 1997). Điều này thường xảy ra với thức ăn truyền thống và dẫn đến sự suy giảm các thông số chất lượng nước trong ao đối chứng (Bảng 7.3.3). Trong nghiên cứu này, thức ăn có công thức đặc biệt được chế biến từ Catenella repens có hàm lượng protein, lipid, carbohydrate và astaxanthin tối ưu và các giá trị này cũng nằm trong mức dinh dưỡng được khuyến nghị cho cá (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia, 1983).

Protein là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng chính trong thức ăn. Nhu cầu protein của cá bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như kích cỡ cá, nhiệt độ nước, tốc độ cho ăn, khả năng sử dụng và chất lượng của thức ăn tự nhiên cũng như hàm lượng năng lượng tiêu hóa tổng thể trong khẩu phần ăn (Satoh, 2000; Wilson, 2000). Trong nghiên cứu này, mức protein trong thức ăn công thức được tìm thấy là 28,29 ± 0,58% so với 32 ± 2,65% trong thức ăn truyền thống. Lipid chủ yếu được đưa vào khẩu phần ăn theo công thức để tối đa hóa tác dụng tiết kiệm protein (Hasan, 2001) bằng cách trở thành nguồn năng lượng. Hàm lượng lipid thấp trong thức ăn có công thức đặc biệt mang lại hiệu quả liên kết cao hơn và độ ổn định trong nước viên cao hơn. Giá trị lipid được nhận thấy là thấp hơn trong thức ăn có công thức đặc biệt cho thấy hiệu quả của thức ăn hiện tại trong việc duy trì sự ổn định của nước. Hàm lượng carbohydrate trong thức ăn là nguồn năng lượng thích hợp nhất cho tôm. Nguồn carbohydrate tốt nhất trong thức ăn cho tôm là những nguồn có nguồn gốc từ các nguyên liệu thực tế có chi phí thấp (ví dụ: bột mì, cám gạo, v.v.). Thức ăn công thức trong nghiên cứu này cũng ủng hộ quan điểm trên (Bảng 7.3.1 và 7.3.3). Việc sử dụng Catenella repens làm chất bổ sung astaxanthin (nguồn carotenoid) đã làm tăng đặc tính chống oxy hóa của thức ăn và dẫn đến nồng độ sắc tố cao hơn ở các loài tôm trong ao thí nghiệm (Bảng 7.3.3 và 7.3.4).

Hiệu suất tăng trưởng của tôm

Kết quả của việc đưa tảo lớn vào thức ăn cho tôm có thể khác nhau tùy theo loài tiêu dùng, loại tảo và mức độ đưa vào được thử nghiệm (Cruz-Suarez và cộng sự, 2009). Penaflorida và Golez (1996) quan sát thấy tôm Penaeus monodon (200 mg) tăng trọng tốt hơn trong khẩu phần bao gồm 50 g/kg bột Kappaphycus alvarezii. Cruz-Suarez và cộng sự (2000) đã tìm thấy sự gia tăng đáng kể về tốc độ tăng trưởng (530-680 g/kg) ở tôm con Litopenaeus vannamei (450 mg) cho ăn khẩu phần ăn có chứa 20 hoặc 40 g/kg bột tảo bẹ Mexico (Macrocystis pyrifera). Nghiên cứu điển hình này cho thấy sự tăng trọng đáng kể trong ao thí nghiệm so với ao đối chứng (Fobs = 1.759 < Fcrit = 5,987) nhưng quan sát thấy sự thay đổi đáng kể ở mức 5% giữa các giai đoạn nuôi. Sự thay đổi đáng kể của C.I. theo thời gian là do sự tăng trưởng sinh khối theo thời gian. Cho tôm ăn (Penaeus monodon) bổ sung bột Catenella giúp tôm tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt hơn trong nghiên cứu này. Tỷ lệ tăng sinh khối ở ao thí nghiệm cũng cao hơn ao đối chứng (Bảng 7.3.3). Điều này cũng được thể hiện qua giá trị FCR ở ao thí nghiệm thấp hơn so với ao đối chứng, cho thấy các loài tôm chấp nhận thức ăn có công thức đặc biệt. Phân tích chi phí-lợi nhuận (CBA) cũng xác nhận tỷ lệ lợi nhuận cao hơn (Bảng 7.3.4).

Sắc tố

Sự phát triển màu sắc phụ thuộc vào hàm lượng carotenoid trong thức ăn (Moretti và cộng sự, 2006) mặc dù đã có báo cáo rằng carotenoid trong khẩu phần ăn chiếm ít hơn 20% sắc tố thịt ở sinh vật thủy sinh (Torrisen và cộng sự, 1989; Storebakken và Không, 1992). Sắc tố carotenoid bị ảnh hưởng bởi nguồn sắc tố trong khẩu phần ăn, mức liều lượng, thời gian cho ăn, thành phần khẩu phần, mức độ este hóa carotenoid, v.v. (Meyers và Latscha, 1997; Bjerkeng, 2000; Buttle và cộng sự, 2001; Gomes và cộng sự, 2002; White và cộng sự, 2002). Động vật bao gồm cá và tôm không thể tổng hợp carotenoid nhưng một số loài nuôi trồng thủy sản nhất định (như động vật giáp xác, cá ăn tạp/ăn cỏ) có khả năng chuyển hóa carotenoid khi ăn vào như ∞-carotene và tích tụ các sản phẩm cuối cùng, thường là astaxanthin trong mô của chúng (Simpson và Chichester, 1981; NRC, 1983). Kết quả ANOVA cho thấy sự khác biệt đáng kể của astaxanthin giữa các ao (p<0,05) cũng như giữa các giai đoạn nuôi (p <0,05) do sự khác biệt về mức độ astaxanthin trong các loại thức ăn. Thức ăn làm từ rong biển có astaxanthin là 62,33 ± 2,78 ppm, trong khi mức astaxanthin trong thức ăn truyền thống là BDL. Rong biển đỏ Catenella repens là nguồn giàu carotenoid (Chakraborty và Santra, 2008; Banerjee và cộng sự, 2009) và do đó có thể là nguyên nhân gây ra hàm lượng astaxanthin cao trong các loài ao thí nghiệm. Sắc tố của cơ là đặc điểm chính của tôm (Brun và Vidal, 2006; Darachai và cộng sự, 1998). Màu sắc của cơ tôm sử dụng rong biển như Catenella repens làm nguồn sắc tố tự nhiên có thể nâng cao tiềm năng đưa rong biển vào thức ăn cho tôm và có thể thay thế hoặc giảm bớt chất tạo màu nhân tạo hiện đang được ngành công nghiệp sử dụng (Banerjee, 2009; Nickell và Bromage, 1998).

Chất lượng nước ao nuôi

Các thông số thủy sinh của ao nuôi tôm phản ánh chất lượng thức ăn cung cấp cho loài nuôi và các giá trị chỉ số điều kiện thể hiện cho sự phù hợp của môi trường đối với loài (Maceina và Murphy, 1998). Nhiệt độ nước bề mặt ở cả hai ao nuôi cho thấy xu hướng biến đổi ít nhiều song song trong suốt thời gian nghiên cứu. Điều này được phản ánh trong kết quả ANOVA cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về thông số giữa ao đối chứng và ao thí nghiệm cũng như giữa các giai đoạn nuôi. Sự đồng nhất về nhiệt độ là do vị trí của cả hai ao trong cùng một địa điểm có thời tiết và khí hậu tương tự nhau. Nhiệt độ nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt tính enzyme của tôm và có thể có ảnh hưởng điều tiết đến sự phát triển của chúng (Mitra và cộng sự, 2006). Nó cũng ảnh hưởng đến quá trình lột xác trong giai đoạn hậu ấu trùng của tôm (WWF-Ấn Độ, 2006). Trong nghiên cứu này, không có mối quan hệ đáng kể nào được quan sát giữa chỉ số thể trạng của tôm và nhiệt độ nước bề mặt.

Độ mặn của khu phức hợp cửa sông Hugli-Matla được biết là có sự biến đổi mạnh mẽ (Saha và cộng sự, 1975). Trạm được chọn Canning nằm ở đoạn cửa sông Matla, nơi được biết đến với điều kiện thủy triều biến thay đổi. Kết quả ANOVA cho thấy sự khác biệt đáng kể về độ mặn giữa các ao (p<0,05) cũng như giữa các giai đoạn nuôi (p < 0,05). Sự khác biệt về độ mặn giữa các ao có thể là do độ mặn của đất khác nhau (như chất nền của ao) khiến muối hòa tan vào nước ao. Sự khác biệt về độ mặn giữa các thời kỳ có đặc điểm của vùng Sundarbans Ấn Độ, nơi giá trị độ mặn tùy theo mùa. Nhìn chung, độ mặn cao được ghi nhận trong thời kỳ tiền gió mùa và giá trị giảm mạnh trong thời kỳ gió mùa (Mitra và cộng sự, 1992, Mitra, 1993, Mitra và Choudhury, 1993, Mitra và cộng sự, 1994, 1999; Mitra, 2000). Trong nghiên cứu này, thời gian nuôi là từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 năm 2009, bao gồm cả mùa tiền gió mùa (tháng 4 đến giữa tháng 6) và mùa gió mùa (giữa tháng 6 đến tháng 7). Giá trị C.I. tương đối cao hơn các giá trị trong ao thí nghiệm có độ mặn ít hơn (4,08 ± 0,16 psu) chứng tỏ hiệu quả của thức ăn công thức trong việc chống lại căng thẳng do độ mặn gây ra, từ đó làm tăng mức độ astaxanthin trong các loài nuôi (Kobayashi và cộng sự, 1992; Tjahjono và cộng sự, 1994; Harker và cộng sự, 1996; Boussiba, 2000; Sarada và cộng sự, 2002). Nuôi tôm ảnh hưởng trực tiếp đến độ pH của đáy ao thông qua việc tích tụ thức ăn thừa, phân tôm, tôm chết, v.v. Những điều này làm chuyển độ pH quá mức trong nước và đất sang trạng thái axit. Trong nghiên cứu này, tình trạng này không được quan sát thấy ở khu vực nuôi trồng do tập quán bón vôi truyền thống định kỳ ở vùng hạ lưu sông Hằng. Kết quả ANOVA cũng xác nhận quan điểm trên khi không quan sát thấy sự thay đổi đáng kể về độ pH giữa các ao cũng như giữa các giai đoạn nuôi. Tải lượng carbon hữu cơ cao được quan sát thấy trong ao đối chứng do sử dụng thức ăn truyền thống dẫn đến độ pH thấp. Kết quả ANOVA cho thấy sự khác biệt đáng kể về hàm lượng carbon hữu cơ giữa các ao (p < 0,05) cũng như giữa các giai đoạn nuôi (p < 0,05). Chất bài tiết và dư lượng thức ăn từ động vật là những tác nhân chính tạo ra tải lượng hữu cơ trong ao nuôi tôm đã gây ra sự thay đổi này.

Oxy hòa tan (DO) là một thông số quan trọng quyết định đời sống thủy sinh. Sức khỏe của tôm bị ảnh hưởng trực tiếp bởi lượng oxy hòa tan và những biến động trong ngày của nó. Tải lượng chất hữu cơ quá mức trong hệ thống dẫn đến giảm giá trị D.O. sẽ đe dọa đến tỷ lệ sống của đời sống thủy sinh. Trong nghiên cứu này, giá trị D.O. trong ao đối chứng có giá trị thấp hơn do sự tích tụ cacbon hữu cơ ở đáy ao. Kết quả ANOVA đã xác nhận sự thay đổi đáng kể của D.O. giữa các ao nuôi (p < 0,05) và sự khác biệt không đáng kể giữa các giai đoạn nuôi. Giá trị D.O. biến động giữa các ao có thể là do tốc độ tăng trưởng khác nhau của các loài nuôi và việc sử dụng các loại thức ăn khác nhau. Thức ăn truyền thống chứa bột cá khô và bột tôm tạp làm giảm lượng D.O. do việc sử dụng nó để oxy hóa các chất còn sót lại. Mặt khác, thức ăn có nguồn gốc từ thực vật tạo ra rất ít dư lượng do đó giá trị D.O. hầu như vẫn không thay đổi. Sự đồng nhất trong D.O. theo thời gian được cho là do các đặc điểm khí tượng thủy văn tương tự của khu vực chung.

Độ trong suốt kiểm soát số lượng thực vật phù du tồn tại trong ao nuôi tôm do chúng phụ thuộc vào bức xạ mặt trời để quang hợp. Do đó, thông số này có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mức độ sắc tố thực vật và màu sắc của nước ao nuôi tôm. Thức ăn công thức được cung cấp trong ao thí nghiệm cho thấy độ trong của nước tăng lên do đặc tính liên kết độc đáo của nó. Điều này đã nâng cao chất lượng nước được phản ánh qua các giá trị chỉ số thể trạng cao của tôm trong ao thí nghiệm. Tuyên bố trên được xác nhận bằng kết quả ANOVA cho thấy sự thay đổi đáng kể về độ trong suốt giữa các ao (p < 0,05) nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa các giai đoạn nuôi. Việc các loài nuôi trong ao thí nghiệm chấp nhận thức ăn làm từ rong biển có thể là cơ sở để giảm các hạt lơ lửng trong pha thủy sinh gây ra sự thay đổi độ trong của nước.

Các chất dinh dưỡng như nitrat, phốt phát và silicat trong giai đoạn thủy sinh của ao nuôi được tạo ra thông qua các sản phẩm bài tiết của loài nuôi, thức ăn thừa và sự xáo trộn của đáy ao (do dòng chảy từ các vùng đất lân cận). Kết quả ANOVA cho thấy sự thay đổi đáng kể của nitrat giữa các ao (p<0,05) có thể là do sự rửa trôi của các thành phần thức ăn (đặc biệt là từ thành phần động vật trong thức ăn truyền thống) trong nước ao và cả chất phân tạo ra amoniac (Mitra và Choudhury, 1995). Tuy nhiên, không qua sát thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các giai đoạn nuôi cấy. Kết quả ANOVA về nồng độ phốt phát trong thời gian nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các ao cũng như giữa các giai đoạn nuôi do việc chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng nước ao nuôi để tắm rửa và sinh hoạt hàng ngày. Kết quả ANOVA về nồng độ silicat cho thấy sự thay đổi đáng kể của silicat giữa các ao (p < 0,05) cũng như giữa các giai đoạn nuôi (p < 0,05). Sự khác biệt đáng kể của silicat giữa các ao có thể là do thành phần nền hoặc đáy khác nhau. Giữa các giai đoạn nuôi trồng, sự khác biệt là do sự biến động theo mùa như thường thấy ở vùng Sundarbans ở Ấn Độ. Dòng chảy gió mùa từ các vùng đất lân cận làm xáo trộn vật liệu đáy ao và làm thay đổi mức độ silicat của pha thủy sinh.

Sắc tố thực vật (Chl a) là các chỉ số đánh giá năng suất thủy sản và trữ lượng thực vật phù du hiện có. Mặc dù nồng độ sắc tố thực vật cao hơn biểu thị hiện tượng phú dưỡng của nước, nhưng sự hiện diện của chúng ở mức tối ưu sẽ thuận lợi cho sự phát triển của tôm vì thực vật phù du tạo thành khẩu phần ăn tự nhiên của tôm. Trong nghiên cứu này, nồng độ Chl a tối ưu và giá trị dinh dưỡng thấp hơn trong ao thí nghiệm chứng tỏ thực vật phù du thủy sinh sử dụng hiệu quả các chất dinh dưỡng. Kết quả ANOVA cho thấy không có sự thay đổi đáng kể của Chl a giữa các ao cũng như giữa các giai đoạn nuôi, cho thấy sự phát triển lành mạnh của các loài nuôi.

Kết luận

Nuôi trồng thủy sản đã trở thành một ngành công nghiệp hành dầu trong thiên niên kỷ hiện nay, bao gồm nuôi trồng hải sản với tôm, mực nang, mực, tôm hùm và các món ngon khác thực sự được “nuôi” trong các bể thủy sinh trong điều kiện được kiểm soát khoa học (Rajkhowa, 2005). Để cải thiện chất lượng sản phẩm thủy sản, việc sử dụng thức ăn giàu dinh dưỡng tiếp tục được chấp nhận rộng rãi trong ngành nuôi trồng thủy sản. Việc sử dụng thức ăn chất lượng giúp giảm đáng kể tổng chi phí biến đổi của hoạt động thông qua năng suất vật nuôi được cải thiện, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) tốt hơn và chất lượng nước được cải thiện do giảm lượng chất dinh dưỡng và chất rắn (tức là phân và thức ăn thừa) trong nước thải. Thức ăn công thức dựa trên Catenella repens cho thấy hiệu suất tăng trưởng tốt hơn của các loài nuôi xét về giá trị chỉ số điều kiện và tỷ lệ sống. Sắc tố cơ thể được cải thiện ở các loài nuôi trong ao thí nghiệm và cho thấy hàm lượng astaxanthin cao hơn đáng kể so với ao đối chứng. Phân tích Chi phí-Lợi nhuận (CBA) phản ánh khả năng sinh lời cao khi sử dụng thức ăn làm từ thực vật thay vì thức ăn truyền thống. Vẫn cần một loạt thử nghiệm để có thời gian kiểm tra kết quả và giúp chương trình trở nên bền vững đối với cư dân đảo nghèo ở vùng hạ lưu đồng bằng sông Hằng.

Theo Prosenjit Pramanick, Sufia Zaman, Pavel Biswas và Abhijit Mitra

Nguồn: https://www.academia.edu/45654419/Shrimp_feed_from_red_seaweed

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital

Xem thêm:

You cannot copy content of this page