Phần 2 – BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG White feces syndrome (WFS) VÀ MỐI LIÊN QUAN CỦA NÓ VỚI VI BÀO TỬ TRÙNG Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) TRONG CÁC TRANG TRẠI NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG THƯƠNG PHẨM: MỘT CUỘC ĐIỀU TRA BỆNH HỌC

3/ Kết quả

3.1. Tổng hợp các dấu hiệu lâm sàng của hội chứng phân trắng

Trong các trang trại nuôi tôm, WFS thường trở nên rõ ràng sau 30–40 ngày nuôi. Tôm có WFS thải phân trắng và có ruột màu trắng/nâu vàng, giảm lượng thức ăn ăn vào. Có thể thấy các chuỗi phân trắng nổi trên bề mặt ao nhiễm WFS trong thời gian từ 10 đến 45 ngày hoặc hơn, FCR tăng, giảm tốc độ tăng trưởng, thay đổi kích thước, vỏ lỏng lẻo và có tôm chết hàng ngày. Tôm bị bệnh có vỏ ngoài lỏng lẻo, ít hoạt động hơn và bơi lờ đờ trên mặt nước ao.

3.2. Kiểm tra bằng kính hiển vi ánh sáng

Tiêu bản ép gan tụy nhiễm WFS cho thấy các cấu trúc Vermiform không di động/cấu trúc ATM bề ngoài giống như các gregarines trong lòng ống HP (Hình 1 A). Các cấu trúc ATM không có bất kỳ cấu trúc tế bào/dưới tế bào hoặc nhân và dường như chỉ chứa các màng ngăn cách (Hình 1 B). Ở độ phóng đại 100×, mẫu phết HP bị nhiễm và các sợi phân trắng cho thấy sự hiện diện của bào tử EHP (Hình 1 C, D). Các mặt cắt mô học của HP bị ảnh hưởng được nhuộm bằng hematoxylin và eosin cho thấy mặt cắt của cấu trúc ATM trong lòng ống HP (Hình 2 A). Các phần mô học được nhuộm bằng nhuộm CFW cho thấy rõ mức độ nghiêm trọng của nhiễm EHP và cấu trúc ATM có bào tử EHP trong HP bị ảnh hưởng bởi WFS (Hình 2 B, C). Các phần bán mỏng của các ống vi khuẩn HP được nhuộm bằng toluidine xanh lam cho thấy các vi nhung mao bình thường, các vi nhung mao dạng vảy và sự hiện diện của các bào tử EHP xung quanh các vi nhung mao đã biến đổi và trong tế bào chất của tế bào biểu mô và tế bào biểu mô bong tróc (Hình 3).

Vùng gắn kết của gan tụy (HP) của tôm bị ảnh hưởng cho thấy cấu trúc ATM

Hình 1. A & B- Vùng gắn kết của gan tụy (HP) của tôm bị ảnh hưởng cho thấy cấu trúc ATM (mũi tên) không có cấu trúc tế bào/dưới tế bào trong lòng ống HP. C – Gắn kết của tôm bị ảnh hưởng HP hiển thị bào tử EHP (mũi tên) ở 100 X. D- Gắn kết của chuỗi phân trắng hiển thị bào tử EHP (mũi tên) ở 100 X

Cấu trúc ATM (mũi tên dài), khối bào tử (mũi tên ngắn), Các bào tử riêng lẻ (đầu mũi tên)

Hình 2. A- Mô học của HP bị ảnh hưởng cho thấy mặt cắt của cấu trúc ATM (mũi tên) và hoại tử nghiêm trọng. B- Phần mô học HP bị ảnh hưởng được nhuộm bằng CFW cho thấy mặt cắt của cấu trúc ATM và mức độ nghiêm trọng của nhiễm bào tử EHP. C- Hình ảnh phóng đại của vòng tròn đánh dấu 2B cho thấy các bào tử trong và xung quanh cấu trúc ATM và khối lượng bào tử. Cấu trúc ATM (mũi tên dài), khối bào tử (mũi tên ngắn), Các bào tử riêng lẻ (đầu mũi tên).

Các phần bán mỏng được nhuộm màu xanh lam toluidine

Hình 3. Các phần bán mỏng được nhuộm màu xanh lam toluidine. HP bị ảnh hưởng cho thấy vi nhung mao bình thường (NM), vi nhung mao bong tróc (SM), vi nhung mao biến đổi và bong tróc (TM), bào tử EHP (S) trong tế bào chất biểu mô và tế bào biểu mô bong tróc (SEC) trong lòng ống.

3.3. Kiểm tra siêu cấu trúc (Kính hiển vi điện tử)

Kính hiển vi điện tử quét (SEM) phát hiện ra các bào tử EHP trưởng thành dày đặc trong các sợi phân màu trắng và cũng thường đi kèm với sự hiện diện của vi khuẩn hình que (Hình 4 A). Soi kính hiển vị điện tử truyền dẫn (TEM) cho thấy các bào tử EHP trong tế bào chất của tế bào biểu mô (Hình 4 B) và các bào tử thoái hóa trong lòng ống và không có mầm bệnh nào khác có thể phát hiện được.

Hình ảnh hiển vi điện tử quét của các sợi phân trắng

Hình 4. A- Hình ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của các sợi phân trắng cho thấy các vi khuẩn hình que và bào tử EHP trưởng thành dày đặc (S). B- Hình ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) của gan tụy bị ảnh hưởng WFS cho thấy các bào tử chưa trưởng thành (mũi tên) trong tế bào chất biểu mô.

  3.4. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR)

Tổng cộng 107 con tôm nhiễm WFS , và 73 mẫu HP ruột bình thường của tôm và 25 mẫu phân trắng từ 25 trang trại bị ảnh hưởng bởi WFS đã được sàng lọc để tìm EHP. Tất cả các mẫu tôm và phân trắng bị ảnh hưởng bởi WFS đều dương tính với EHP. Trong số 73 con tôm có đường ruột bình thường, 62 con được phát hiện dương tính với EHP trong khi không có mẫu nào cho kết quả dương tính với WSSV, IHHNV, IMNV và AHPND. Ngoài ra, bằng qPCR, các bản sao EHP được so sánh ở 25 con tôm bị ảnh hưởng WFS và 17 con tôm có ruột bình thường và nhận thấy rằng tải lượng EHP ở những con tôm bị ảnh hưởng bởi WFS (1,03 × 106 bản sao ± 1,09 × 106 bản sao ng – 1 HP DNA) cao hơn đáng kể so với tôm có đường ruột bình thường (7,6 × 104 bản sao ± 2,2 × 105 bản sao ng – 1 HP DNA)

3.5. Kiểm tra sinh học WFS

Sau ngày nhiễm thứ 3, tôm được nuôi bằng mô HP băm nhỏ bị ảnh hưởng bởi WFS cho thấy cấu trúc ATM trong lòng ống HP và bắt đầu thải cả sợi phân không nổi, trong suốt và sợi phân bình thường (Hình 5 A). Điều thú vị là sau ngày nhiễm 15, những con tôm cảm nhiễm bài tiết ra những sợi phân trắng nổi và có ruột màu trắng (Hình 5 A & B). Trong các bể thực nghiệm bị nhiễm, các sợi phân trắng được quan sát thấy trong 3–4 ngày. Tất cả các chuỗi phân được xét nghiệm dương tính với EHP bằng SWP-PCR sau ngày nhiễm thứ 7. Trong khi động vật được nuôi bằng bào tử tinh khiết tạo ra các chuỗi phân bình thường, các chuỗi phân trong suốt được tìm thấy dương tính với EHP ở ngày nhiễm thứ 14. Trong nhóm đối chứng, tôm chỉ bài tiết phân bình thường và cho thấy âm tính với EHP trong suốt quá trình nghiên cứu. Sau cảm nhiễm, lượng thức ăn ăn vào đã giảm ở cả hai nhóm được cảm nhiễm so với nhóm đối chứng. Trong phân tích sinh học WFS, tải lượng EHP tối đa ở ngày nhiễm thứ 14, tiếp theo là 21, 30 và thứ 7 (Hình 6).

WFS Thử nghiệm sinh học

Hình 5. –WFS Thử nghiệm sinh học A: 1- Sợi phân bình thường, 2- Sợi phân trong suốt không trôi, 3- Sợi phân trắng. B: sợi phân trắng nổi quan sát được trên mặt nước bể thí nghiệm.

Thử nghiệm sinh học

Hình 6. WFS- Thử nghiệm sinh học, bản sao EHP/ ng HP DNA trong tôm được nuôi bằng WFS mô HP bị ảnh hưởng ở 7 dpi, 14 dpi, 21 dpi, 30 dpi. Các giá trị dữ liệu được đưa ra là trung bình ± độ lệch chuẩn n = 6; các chữ cái khác nhau trong chỉ số trên biểu thị ý nghĩa thống kê ở giá trị p (P <0,05).

3.6. WFS – quan sát lâm sàng

Sự phục hồi sau nhiễm WFS đã được báo cáo bởi những người nuôi tôm ở một số trang trại bị ảnh hưởng bởi WFS. Để điều tra sự phục hồi sau WFS, tôm (bị ảnh hưởng bởi WFS và tôm có ruột bình thường) được đưa đến phòng thí nghiệm từ các trang trại (A, B, C, D) được duy trì trong điều kiện phòng thí nghiệm tối ưu và được quan sát lâm sàng trong 20 ngày. Trong 2–3 ngày đầu, các con vật bị nhiễm bài tiết các sợi phân màu trắng sau khi bài tiết các sợi phân trong suốt không trôi trong 3–5 ngày. Các sợi phân trắng được tìm thấy cứng lại và tôm bài tiết các sợi phân bình thường trong khoảng 7–10 ngày mà không có bất kỳ dấu hiệu nào. Trong khi ở các trại tôm A, B, C, D, phân trắng nổi được quan sát thấy trong 24, 11, 13 và 19 ngày. Những động vật bị ảnh hưởng bởi WFS được bài tiết các chuỗi phân bình thường mà không có dấu hiệu WFS được coi là những động vật đã giải quyết được WFS. Lượng thức ăn ăn vào ban đầu thấp ở những động vật bị ảnh hưởng trong 6–7 ngày đầu tiên. Sau đó, lượng thức ăn ăn vào và tăng trưởng được cải thiện. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng ngày của tôm được phân giải WFS (82,7 ± 10,8 mg) thấp đáng kể so với tôm có ruột bình thường (103,8 ± 8,9 mg). Trong khi tôm có ruột bình thường bài tiết phân bình thường. Tuy nhiên, trong quá trình quan sát lâm sàng, 10% số tôm bị ảnh hưởng tiếp tục bị lỏng vỏ, kém hoạt động và bị chết hàng ngày. Do đó, với qPCR, tải lượng EHP của tôm bị ảnh hưởng bởi WFS cao hơn đáng kể so với tôm đã được xử lý WFS và tôm có ruột bình thường (Hình 7). Theo đó, mô học của HP từ tôm đã được xử lý WFS cho thấy sự tái sinh và tăng sinh của các tế bào E không biệt hóa (tế bào phôi) ở đầu xa của các ống HP được bao quanh bởi các ống HP bị hoại tử nghiêm trọng và thoái hóa ở vùng trung gian (Hình 8).

Bản sao EHP-DNA trong WFS bị ảnh hưởng

Hình 7. Bản sao EHP / DNA trong WFS bị ảnh hưởng, WFS đã phân giải, ruột bình thường A (ngày thứ 0) và động vật có ruột bình thường B (ngày thứ 20). Các giá trị dữ liệu được đưa ra là Mean ± SD, các chữ cái khác nhau trong ký tự trên biểu thị ý nghĩa thống kê ở giá trị p (P <0,05).

WFS phân giải các ống HP của tôm bằng các tế bào E tái sinh

Hình 8. A & B – WFS phân giải các ống HP của tôm bằng các tế bào E tái sinh (hình tròn) được bao quanh bởi các ống HP bị hoại tử nghiêm trọng và thoái hóa. C – Hình ảnh phóng đại của vòng tròn đánh dấu 8 A cho thấy tế bào E tái sinh ở đầu xa của ống (mũi tên) được bao quanh bởi các tế bào thoái hóa và hoại tử ở đầu giữa của ống. D- Hình ảnh phóng đại của vòng tròn được đánh dấu ở 8 B cho thấy các tế bào Phôi hoặc E không biệt hóa đang tái sinh với sự phân chia tế bào trong các ống HP (vạch chia độ – 50 μm).

 3.7. Vi khuẩn học

Số lượng khuẩn lạc Vibrio xanh (VGC), tổng số Vibrio (TVC), tổng số vi khuẩn (TBC) của tôm bị ảnh hưởng bởi WFS (n = 20) cao hơn đáng kể so với tôm ruột bình thường (n = 20) (Bảng 2) . Trong số các chủng phân lập chủ yếu, V. alginolyticus V. proteolyticus được tìm thấy chủ yếu ở trang trại A. V. coralliilyticus và V. parahemolyticus được tìm thấy chủ yếu ở trang trại B. V. campbelliV. alginolyticus được tìm thấy chủ yếu ở trang trại C và V. parahemolyticus được tìm thấy chủ yếu ở trang trại D. Không có Vibrio sp. được tìm thấy chiếm ưu thế đáng kể trong số bốn trang trại bị ảnh hưởng bởi WFS.

Bảng 2

So sánh số lượng vi khuẩn của tôm bị ảnh hưởng WFS và tôm có đường ruột bình thường trong hemolymph

So sánh số lượng vi khuẩn của tôm bị ảnh hưởng WFS và tôm có đường ruột bình thường trong hemolymph

Ý nghĩa thống kê được quan sát thấy giữa tôm bị ảnh hưởng WFS và tôm có ruột bình thường về số lượng khuẩn lạc Vibrio xanh (VGC), tổng số Vibrio (TVC) và tổng số vi khuẩn (TBC). M- Giá trị trung bình, SD- tiêu chuẩn, n = 20.

4/ Thảo luận chung

Hội chứng phân trắng (WFS) là một hội chứng vô căn mới nổi được báo cáo từ thập kỷ trước và đã trở thành mối lo ngại nghiêm trọng đối với các quốc gia nuôi tôm ở Đông Nam Á. Hội chứng này được đặt tên là WFS do tôm nuôi bị ảnh hưởng bài tiết phân trắng. Các chuỗi phân trắng bao gồm chất nhầy trong ruột, tế bào biểu mô HP bị bào mòn, cấu trúc ATM và các bào tử EHP trưởng thành dày đặc thường đi kèm với vi khuẩn hình que.

WFS thường có liên quan đến Gregarine, cấu trúc ATM, vi khuẩn Vibrio, vi bào tử trùng Enterocytozoan hepatopenaei (EHP), tảo xanh lam và nấm (Chaweepack và cộng sự, 2015; Hou và cộng sự, 2018; Sriurairatana và cộng sự, 2014; Tangprasittipap và cộng sự, 2013). Trong quá trình nghiên cứu, cấu trúc Vermiform giống như Gregarine được quan sát thấy trong lòng HP không có cấu trúc tế bào/dưới tế bào và thiếu các bào quan tế bào như nhân, phân bào, ribosome và khả năng vận động (Sriurairatana và cộng sự, 2014). Tuy nhiên, Sriurairatana và cộng sự (2014) đã mô tả những Vermiform này là cấu trúc ATM, không phải là Gregarine. Trong những con tôm bị ảnh hưởng bởi WFS, giữa hệ vi sinh vật vi khuẩn, một số nghiên cứu đã báo cáo sự đại diện quá mức của các cộng đồng vi khuẩn đa dạng như Candidatus BacilloplasmaPhascolarctobacterium Basidiomycota (Hou và cộng sự, 2018), Basidiomycota và Ascomycota (Dai và cộng sự, 2019), Vibrio, Candidatus Bacilloplasma, Photobacterium, Aeromonas và Ascomycota (Huang và cộng sự, 2020) Alter- omonas, Photobacterium, Pseudoalteromonas và Vibrio (Alfiansah và cộng sự, 2020) và nhiều Vibrio sp (Prasanna và Hettiarachchi, 2017; Somboon và cộng sự, 2012; Wang và cộng sự, 2020). Trong nghiên cứu này, số lượng khuẩn lạc Vibrio xanh (VGC), tổng số Vibrio (TVC) và tổng số vi khuẩn (TBC) của tôm bị ảnh hưởng bởi WFS cao hơn đáng kể so với tôm ruột bình thường. Vibrio sp. thường là các mầm bệnh thứ cấp cơ hội và được báo cáo là đã gia tăng đáng kể khi nhiễm WSSV trước đó (Zhang và cộng sự, 2016) và làm tăng nhanh tỷ lệ chết ở tôm bị nhiễm MBV và WSSV (Joseph và Lipton, 2003). Caro và cộng sự. (2020) cũng công nhận rằng các ống HP bị nhiễm EHP đã bị Vibrio spp xâm chiếm một cách nhanh chóng. Do đó, không có Vibrio sp. được tìm thấy chiếm ưu thế đáng kể trong số các trang trại bị ảnh hưởng bởi phân trắng trong nghiên cứu này.

Sự hiện diện và mối liên hệ của EHP với WFS đã được báo cáo trong một số nghiên cứu (Caro và cộng sự, 2020; Ha và cộng sự, 2010; Rajendran và cộng sự, 2016; Tang và cộng sự, 2016;). Nghiên cứu trước đây của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nhiễm EHP trong các ao nuôi tôm bị ảnh hưởng bởi WFS cao hơn so với các ao không có WFS (Rajendran và cộng sự, 2016). Tương tự, nguyên nhân của WFS ở tôm sú ở Việt Nam là do EHP (Ha và cộng sự, 2010), và cũng có một số nghiên cứu báo cáo mối liên quan của EHP với WFS (Caro và cộng sự, 2020; Tang và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cho thấy rằng các ao không có WFS và ao phục hồi WFS có tỷ lệ nhiễm EHP cao hơn và báo cáo mối liên quan phi nhân quả của EHP với WFS (Tangprasittipap và cộng sự, 2013). Trong tất cả các nghiên cứu này, các ao nuôi tôm được coi là một đơn vị lấy mẫu. Nhưng thường các ao bị ảnh hưởng bởi WFS bao gồm tôm bình thường không có dấu hiệu WFS. Theo đó, 9 trong số 72 con tôm có ruột bình thường từ các trang trại bị ảnh hưởng bởi WFS đã được kiểm tra EHP âm tính trong quá trình nghiên cứu. Do đó, các cá thể tôm có dấu hiệu lâm sàng WFS đã được khảo sát trong nghiên cứu này. EHP được phát hiện ở tất cả các tôm có dấu hiệu lâm sàng WFS bằng phương pháp soi ánh sáng và SWP-PCR. Sriurairatana và cộng sự. (2014) cho biết cấu trúc ATM do nhiều tôm biểu hiện dẫn đến các chuỗi phân trắng nhưng không tìm thấy mầm bệnh nào. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cùng với các cấu trúc ATM, sự hiện diện của EHP đã được tiết lộ trong các động vật bị ảnh hưởng bởi WFS. Các nghiên cứu về cấu trúc cho thấy không có mầm bệnh nào khác có thể chứng minh được cùng với EHP ngoài vi khuẩn hình que bởi SEM. Hơn nữa, tải lượng EHP ở tôm bị ảnh hưởng bởi WFS cao hơn đáng kể so với tôm ruột bình thường trong cùng một ao. Tương tự, tôm từ các ao có WFS và trước đó có WFS có tải lượng EHP cao hơn so với các ao bình thường và ao không có WFS (Caro và cộng sự, 2020).

Các nghiên cứu xét nghiệm sinh học trước đó phần lớn không tái tạo được WFS trong phòng thí nghiệm (Tangprasittipap và cộng sự, 2013; Wang và cộng sự, 2020). Trong khi đó, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tái tạo thành công các sợi phân trắng trôi nổi chính xác ở các động vật được cảm nhiễm. Ban đầu, cấu trúc ATM được tái tạo trong lumen HP của tôm thử thách sau ngày nhiễm (dpi) thứ 3, được báo cáo liên quan đến việc tạo ra các sợi phân trắng (Sriurairatana và cộng sự, 2014). Sau dpi thứ 15, các sợi phân trắng trôi nổi được tái tạo ở những động vật được thử thách được nuôi bằng mô HP bị ảnh hưởng bởi WFS. Ngoài ra, các động vật được thử thách được phát hiện dương tính với EHP ở dpi thứ 7. Do đó, cấu trúc ATM, EHP và WFS đã được tái tạo đồng thời trong nghiên cứu này. Gần đây Huang và cộng sự (2020) đã cấy WFS vào tôm khỏe mạnh bằng cách cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột, nhưng nghiên cứu không loại trừ EHP và chỉ ra hệ vi sinh vật HP. Một lần nữa, trong nghiên cứu của chúng tôi, tải lượng EHP đạt mức tối đa khi động vật được bài tiết phân trắng trôi nổi. Tuy nhiên, các bào tử EHP tinh khiết (106 ml− 1) không thể tái tạo các sợi phân trắng trôi nổi. Ngoài ra, các động vật được cảm nhiễm được nuôi bằng bào tử EHP tinh khiết được thử nghiệm chỉ dương tính với EHP ở dpi 14. Chúng tôi dự đoán rằng hoặc bào tử EHP ở 106 ml− 1 có thể không đủ để tạo ra WFS hoặc sự tham gia của bất kỳ tác nhân không xác định nào kết hợp với EHP. Tuy nhiên, khả năng lây nhiễm của các bào tử tinh khiết để sinh sản gây bệnh cần được nghiên cứu chi tiết.

Trong thí nghiệm lâm sàng WFS, WFS ảnh hưởng đến tôm, khi được duy trì trong điều kiện phòng thí nghiệm tối ưu, các sợi phân trắng được quan sát trong 2–3 ngày và đã được giải quyết. Tôm bắt đầu bài tiết phân bình thường trong khoảng 7–10 ngày, mà không có bất kỳ sự xâm nhập nào. Tương tự, trong thử nghiệm sinh học WFS, các sợi phân trắng chỉ được quan sát trong 3–4 ngày trong thiết lập phòng thí nghiệm. Các nghiên cứu mô học về tôm đã khỏi WFS cho thấy sức mạnh tái sinh của các tế bào biểu mô gan-tụy (tế bào E) sau WFS. Tế bào E hay còn gọi là tế bào phôi là tế bào gốc midgut chịu trách nhiệm đổi mới biểu mô hình ống thông qua quá trình phân bào. (Silva và cộng sự, 2018; Sonakowska-Czajka và cộng sự, 2021). Theo báo cáo, các microsporidia được lập chiến lược nhằm vào các mô có khả năng tái sinh cao để liên tục phát tán bào tử vào môi trường (Vavra´ và Lukeˇs, 2013).

Do đó, khả năng tái tạo cao của biểu mô đường tiêu hóa bù đắp sự phá hủy do vi khuẩn microsporidia gây ra ở một mức độ nhất định (V´avra và Larsson, 2014). Sau khi WFS giải quyết, lượng thức ăn ăn vào và tăng trưởng được cải thiện ở các động vật bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng ngày của tôm được phân giải WFS thấp hơn đáng kể so với tôm có ruột bình thường. Ngoài ra, động vật được phân giải WFS tiếp tục thải bào tử trong phân bình thường, mặc dù lượng EHP tương đối thấp. Tương tự, với nhiễm trùng cấp tính của các loài Encephalitozoon, bệnh phân lỏng được quan sát để giải quyết, nhưng các cá thể vẫn tiếp tục rụng các bào tử không liên tục (Didier, 2014). Do đó, sự tái tạo tế bào biểu mô và giải quyết tình trạng lâm sàng của WFS không phải là sự tái xuất hoàn toàn khỏi bệnh và có thể là phản ứng của vật chủ chống lại mầm bệnh. Nếu thời gian bị ảnh hưởng của WFS kéo dài hơn 20-30 ngày trong các ao nuôi tôm, nó sẽ dẫn đến tình trạng kém hấp thu chất dinh dưỡng, dẫn đến sự thay đổi kích thước và tăng FCR (quan sát chưa được công bố).

Với tỷ lệ EHP phổ biến 100% ở tôm bị ảnh hưởng bởi WFS, chúng tôi kết luận rằng tất cả tôm bị ảnh hưởng bởi WFS đều bị nhiễm EHP, nhưng tất cả tôm bị ảnh hưởng bởi EHP có thể không tạo ra phân trắng. Microsporidia gây nhiễm trùng đường ruột chủ yếu phát tán bào tử qua phân (Becnel và Andreadis, 2014). Paranosema locustaeNosema pyrausta, lây nhiễm cho châu chấu và sâu đục bắp ngô, tương ứng, bảo vệ các bào tử trong phân để tồn tại lâu dài để truyền bệnh (Solter, 2014). Các vi sinh vật, chẳng hạn như Enterocytooon bieneusi, Encephalitozoon cuniculiEncephali-tozoon gutis, được biết là gây tiêu chảy ở người (Ghosh và Weiss, 2012), Enterocytooon bieneusi gây tiêu chảy ở gia súc và lợn (Rinder và cộng sự, 2000), và Nosema sp. gây bệnh kiết lỵ ở ong mật (Kim và cộng sự, 2017). Do đó, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng WFS có thể gây phân lỏng ở tôm thông qua việc EHP phát tán các bào tử trưởng thành vào môi trường và truyền bệnh. Tuy nhiên, sự tương tác giữa vật chủ và EHP và mối liên hệ nhân quả với cấu trúc ATM và WFS cần được nghiên cứu thêm. Bên cạnh đó, với nghiên cứu này, rõ ràng là nhiễm trùng EHP nặng có liên quan trực tiếp đến WFS.

Từ nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi khuyến nghị rằng có thể giảm thức ăn trong giai đoạn bị ảnh hưởng bởi WFS trong các ao nuôi tôm. Các sợi phân trắng có chứa dày đặc bào tử EHP nên được loại bỏ khỏi các ao bị ảnh hưởng hàng ngày. Vì gan tụy có khả năng tự phục hồi sau nhiễm WFS nên các loại thuốc/chất phụ gia tăng cường sự tăng sinh tế bào biểu mô có thể được sử dụng như một biện pháp điều trị trong các ao bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng của Gregarine trong WFS là không đáng kể, nên việc điều trị bằng thuốc kháng gregarine có thể không hữu ích trong việc điều trị những con tôm bị ảnh hưởng. Kết luận, nghiên cứu này đã tiết lộ sự hiện diện của EHP, cùng với cấu trúc ATM, trong các động vật bị ảnh hưởng bởi WFS. Sau đó, cấu trúc ATM, EHP và WFS đã được tái tạo thành công trong điều kiện thử nghiệm. Tuy nhiên, sự phục hồi WFS được quan sát không phải là sự phục hồi hoàn toàn của bệnh. WFS chủ yếu bao gồm các bào tử trưởng thành dày đặc và có liên quan trực tiếp đến tải lượng EHP nghiêm trọng. Với nghiên cứu này, chúng tôi suy đoán rằng WFS là một tình trạng lâm sàng của bệnh phân lỏng ở tôm do tôm bị nhiễm EHP nặng có thể do EHP kết hợp với một tác nhân không xác định.

Nhóm tác giả: T. Sathish Kumar*, M. Makesh, S.V. Alavandi , K.K. Vijayan

Biên dịch: Hoàng Quyên – Công ty TNHH PTTS Bình Minh

Từ khóa: Hội chứng phân trắng (WFS), Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), Vi bào tử trùng, Viroform (ATM), Penaeus vannamei, phân lỏng ở tôm.

Xem thêm:

You cannot copy content of this page