Bài Học Từ Trung Quốc: Cái Nôi Của Nuôi Trồng Kết Hợp

Trong khi Tiến sĩ Thierry Chopin – người Canada, là người khiến cụm từ nuôi trồng thủy sản đa loài (IMTA) được biết đến rộng rãi thì chính người Trung Quốc đã đi đầu trong việc phát triển – và áp dụng – các hình thức nuôi ghép thực tế.

Điều này đã được đưa ra trong cuộc họp gần đây giữa The Fish Site và hai chuyên gia hàng đầu của Trung Quốc về IMTA – Giáo sư Shuanglin Dong, người đứng đầu nhóm sinh thái nuôi trồng thủy sản tại Đại học Hải dương Trung Quốc và Giáo sư Jianguang Fang từ Viện Thủy sản Hoàng Hải.

Sự kiện được tổ chức bởi Patrick Sorgeloos, từ Đại học Ghent, người đã chỉ ra rằng nuôi trồng thủy sản vừa mới mẻ ở phương Tây và nó cũng có xu hướng bị chi phối bởi nuôi đơn – gồm các loài như cá hồi, cá vược, cá tráp, trai và hàu.

Mặt khác, ông lưu ý rằng Trung Quốc không chỉ có lịch sử nuôi trồng thủy sản lâu đời, mà còn giỏi trong việc sản xuất nhiều loài trong một khu vực hoặc hệ thống – áp dụng các nguyên tắc bao gồm cả nuôi ghép và IMTA. Giáo sư Sorgeloos đã chỉ ra rằng những cách làm đó có thể mang lại nhiều lợi ích – bao gồm tăng cường tính bền vững của hệ thống, tái sử dụng chất dinh dưỡng và tăng năng suất.

Giáo sư Dong và Fang đã có những bài thuyết trình để củng cố sự hợp nhất của khái niệm mà ngày nay được biết đến rộng rãi là IMTA đã – và hiện tại – trong ngành nuôi trồng thủy sản Trung Quốc. Thật vậy, họ lưu ý rằng có khoảng 80% nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở Trung Quốc hiện được sản xuất trong các hệ thống nuôi ghép, trong khi con số này là khoảng 50% đối với nuôi trồng thủy sản biển.

Nền tảng lịch sử

Giáo sư Dong cho biết rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng như vậy, việc nuôi cá chép lần đầu tiên được ghi nhận ở Trung Quốc cách đây 8.000 năm, trong khi việc nuôi cá chép trên ruộng lúa đã diễn ra từ ít nhất vào năm 900 sau Công nguyên. Tuy nhiên, ngay sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949, sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản trên biển của Trung Quốc mới thực sự bắt đầu phát triển. Mục tiêu ban đầu là nuôi độc canh, nhưng vào năm 1975, việc đồng thời nuôi tảo bẹ và động vật thân mềm đã được thử nghiệm thành công và đến những năm 1980, việc nuôi ghép đã được bắt đầu một cách nghiêm túc. Đến đầu thiên niên kỷ mới, IMTA bắt đầu trở nên phổ biến.

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tích hợp

Giáo sư Dong giải thích một loạt các hệ thống nuôi trồng thủy sản tích hợp hiện đang được triển khai ở Trung Quốc và những ưu điểm của chúng – đặc biệt là khả năng thu hồi chất thải của các hệ thống này; duy trì chất lượng nước; sử dụng hiệu quả các nguồn lực; và khả năng giảm bùng phát dịch bệnh.

Các ví dụ về IMTA hiện đang được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc bao gồm sản xuất tôm, ngao và tảo đỏ Gracilaria trong các hệ thống ao nuôi. Ông giải thích: “Trong hệ thống này, một loài là thức ăn hoặc dinh dưỡng của loài khác. Một trường hợp khác liên quan đến tôm, trai và cá rô phi, Giáo sư Dong đã chỉ ra rằng điều này có thể tăng gấp đôi sản lượng tổng và giảm mức nitơ trong nước xuống 86%”.

Một ví dụ hấp dẫn khác là việc đồng nuôi cá nóc và tôm – trong đó cá nóc săn những con tôm yếu, do đó ngăn ngừa được sự bùng phát của các bệnh bao gồm cả bệnh đốm trắng (WSSV).

Giáo sư Dong sau đó lưu ý rằng nuôi trồng thủy sản tổng hợp có nhiều dạng – một dạng liên quan đến việc tích hợp các loài khác nhau, dạng khác liên quan đến việc tích hợp các hệ thống khác nhau.

Tích hợp các loài

Một ví dụ về sự tích hợp không gian bao gồm trồng tảo bẹ nuôi ở lớp trên cùng của cột nước, sò điệp trong lồng đèn ở lớp giữa và hải sâm trên lớp sinh vật đáy. Trong khi đó, hệ thống quay vòng bao gồm thả tôm và cua trong cùng một ao, thu hoạch tôm trước, sau đó đến cua – dẫn đến tổng thu hoạch tăng lên. Kết hợp tạm thời bao gồm nuôi tôm trong những tháng ấm hơn, sau đó thả cá Mandarin vào các ao đó sau khi thu hoạch tôm xong.

Hệ thống sản xuất tích hợp

Việc tích hợp các hệ thống khác nhau bao gồm thiết lập phân vùng, trong đó cá, hàu, tôm và rong biển đều được sản xuất trong các ao riêng biệt nhưng các ao nuôi được kết nối với nhau. Một số khác là nuôi cá-lúa, aquaponics, cá-gà, cá-gà, cá-lợn, cá-lưỡng cư; và nuôi trồng thủy sản trong rừng ngập mặn.

GS Dong nhấn mạnh rằng “Trung Quốc có dân số lớn nhất thế giới. Chúng tôi cần nhiều hải sản hơn. Hơn nữa, nhân loại đang phải đối mặt với những thách thức quan trọng về gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, chúng tôi cần gấp một quy trình có thể tăng sản lượng, giảm thiểu chất thải và tiếp nhận năng lượng liên tục. Bây giờ chúng ta cần những giải pháp hợp lý, có thể chấp nhận được và khả thi”.

Theo Giáo sư Dong, có một lựa chọn là tăng cường hệ sinh thái nuôi trồng thủy sản (ELIAS) – có nghĩa là “nâng cao hiệu quả và năng suất tổng thể của các hệ thống nuôi trồng thủy sản thông qua việc tích hợp hợp lý các yếu tố đầu vào của con người và các dịch vụ hệ sinh thái”.

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn năng lượng mặt trời

Một ví dụ khác là khái niệm mới nổi về hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn bằng năng lượng mặt trời (SRAS).

“Hầu hết RAS là các hệ thống nhân tạo cao và không tận dụng được các dịch vụ tiềm năng của hệ sinh thái, chẳng hạn như quang hợp. Điều này có nghĩa là các hệ thống này bị hạn chế bởi lượng khí thải carbon cao hơn và chi phí cao. Để vượt qua rào cản về chi phí vận hành cao hơn và loại bỏ chất thải, RAS nên được tích hợp với các dịch vụ hệ sinh thái – như phục hồi chất dinh dưỡng thông qua quang hợp của thực vật thủy sinh.

Ông nhận xét: “Thực vật thủy sinh trong RAS có thể hấp thụ nitơ hữu cơ, giải phóng oxy hòa tan và có thể dùng như một sản phẩm thương mại”.

Trong khi các hệ thống SRAS vẫn còn ở giai đoạn đầu, Giáo sư Dong tin rằng những hệ thống này đều có tiềm năng dài hạn đáng kể.

 

Biên soạn: Rob Fletcher

Biên dịch: T.L – BÌNH MINH CAPITAL

Nguồn: https://thefishsite.com/articles/lessons-from-china-the-home-of-integrated-aquaculture

Xem thêm:

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

You cannot copy content of this page