TÓM TẮT
Việc nuôi tôm trong môi trường có độ mặn thấp đã phát triển rộng rãi ở các quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia và một số nước thuộc Liên bang Hoa Kỳ. Phương pháp nuôi tôm sú Penaeus monodon Fab mới này được áp dụng trong các hệ thống nuôi tôm có độ mặn thấp hoặc hệ thống nuôi tôm trên đất liền trong môi trường có độ mặn thấp. Nguồn nước sẽ được pha loãng với nước sông để giảm độ mặn xuống còn 25-30 ppt cho giai đoạn ương hậu ấu trùng và giai đoạn tôm đang phát triển. Quá trình pha loãng sẽ được tiếp tục để giảm độ mặn xuống còn 5 ppt, độ mặn này sẽ được sử dụng cho các ao tôm giai đoạn đang phát triển cho đến khi thu hoạch. Việc thay đổi môi trường nước nuôi từ vùng ven biển sang vùng đất liền là do các vấn đề về bùn thải, ô nhiễm môi trường, hoặc các vấn đề môi trường như phá rừng ngập mặn hay sự thay đổi quy hoạch không gian vùng ven biển.
Mục tiêu của nghiên cứu là điều tra tác động của việc bổ sung K+, Mg2+ và sự kết hợp của chúng đối với tốc độ tăng trưởng hàng tuần (dựa trên trọng lượng) ở tôm và khả năng thẩm thấu. Nghiên cứu đã bổ sung khoáng chất vào khẩu phần ăn của tôm với giả định rằng cách tiếp cận này sẽ có tác động tích cực hơn đến tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR), tăng trưởng tuyệt đối (∆G), tỷ lệ sống (SR) và khả năng thẩm thấu (OC) của tôm.
Thiết kế thí nghiệm là kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Nghiệm thức A: chế độ ăn tiêu chuẩn bổ sung 1% K+ (1g KCl / 100g khẩu phần)
- Nghiệm thức B: chế độ ăn tiêu chuẩn bổ sung 1% Mg2+ (1g dolomite / 100g khẩu phần)
- Nghiệm thức C: chế độ ăn kết hợp 0,5% K+ và 0,5% Mg2+
- Nghiệm thức D: chế độ ăn tiêu chuẩn không bổ sung khoáng chất ( nghiệm thức đối chứng)
Kết quả phân tích dữ liệu sử dụng phân tích phương sai ANOVA cho thấy rằng tất cả các nghiệm thức bổ sung khoáng chất không ảnh hưởng đáng kể (P> 0,05) đến SGR và ∆G của tôm sú Penaeus monodon được nuôi trong môi trường có độ mặn thấp. Nghiệm thức C kết hợp giữa 2 khoáng chất K và Mg cho thấy mức tăng trưởng tuyệt đối cao nhất với 0,7023 g, tiếp theo là nghiệm thức A với 0,6421 g, nghiệm thức B với 0,5303 g và cuối cùng là nghiệm thức D với 0,4951 g. Tỷ lệ tăng trưởng cụ thể hàng tuần (SGR) đã cho thấy một mô hình giảm dần đều, với tỷ lệ thấp nhất vào tuần thứ 5 và tăng trở lại vào tuần thứ 6. Tất cả các khoáng chất được bổ sung trong chế độ ăn đã cho thấy có tác động đáng kể đến khả năng điều hòa thẩm thấu (OC) (P <0,05) với sự thay đổi môi trường nước biển như đã đề cập trước đó. Tất cả các nghiệm thức đều cho thấy tỷ lệ sống cao (SR) với nghiệm thức A: 95,83%; B: 5,83%; C: 91,67% và đối chứng D: 85,50%.
Từ khóa: Penaeus monodon F., Khoáng chất, Chất bổ sung, Chế độ ăn, Môi trường nuôi trong độ mặn thấp
GIỚI THIỆU
Việc nuôi tôm trong môi trường có độ mặn thấp đã phát triển rộng rãi ở các quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia và một số nước thuộc Liên bang Hoa Kỳ. Phương án nuôi tôm mới đã được áp dụng và được gọi là nuôi tôm ở độ mặn thấp; hệ thống nuôi tôm trên đất liền trong môi trường có độ mặn thấp, hoặc nuôi tôm trên đất liền. Các ao có độ mặn thấp không phải lúc nào cũng nằm gần bờ biển. Ví dụ như ở Thái Lan và Indonesia, các ao nuôi tôm sú Penaeus monodon Fab quy mô thương mại trên đất liền sử dụng nước biển và bổ sung thêm muối để đạt độ mặn lên đến 250 ppt. Nguồn nước này sau đó được di chuyển bằng xe tải đến các ao trong đất liền cách khu vực biển đến 150 km. Nước trong các ao trên đất liền sẽ được pha loãng với nước sông để giảm độ mặn xuống còn 25 – 30 ppt cho giai đoạn ương hậu ấu trùng và giai đoạn tôm đang phát triển. Quá trình pha loãng sẽ được tiếp tục để giảm độ mặn xuống còn 5 ppt, độ mặn này sẽ được sử dụng cho các ao tôm đang phát triển cho đến khi thu hoạch.
Việc thay đổi môi trường nước nuôi từ vùng ven biển sang vùng đất liền là do các vấn đề về bùn thải, ô nhiễm môi trường, hoặc các vấn đề môi trường như phá rừng ngập mặn hay sự thay đổi quy hoạch không gian vùng ven biển. Từ năm 1990 – 1994, sự bùng phát dịch bệnh ở tôm xuất hiện do các virus như virus baculo monodon (MBV), virus gây bệnh đầu vàng (YHB), virus gây bệnh thân đỏ đốm trắng (SEMBV), virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) (theo Kokarkin, 1999; Rengpipat và cộng sự, 2003). Với khả năng thích nghi ở nhiều độ mặn khác nhau (0,5 – 40 ppt), tôm sú Penaeus monodon Fab đã trở thành một lựa chọn tuyệt vời cho việc nuôi tôm trong môi trường có độ mặn thấp.
Nông dân ở các khu vực như Lampung, Brebes và Sidoharjo đã áp dụng mô hình nuôi tôm độ mặn thấp ở các ruộng lúa. Nhưng một số vấn đề như tôm lột xác không thành công, bơi mất phương hướng, tốc độ phát triển chậm và tỷ lệ chết cao đã xuất hiện (theo Lockwood, 1989; Davis và cộng sự, 2002; Davis và Saoud, 2004). Những vấn đề này cũng đã xảy ra ở các khu vực khác khi áp dụng mô hình tương tự. Hầu hết các vấn đề đó được cho là do nồng độ thấp hoặc sự mất cân bằng của một số hợp chất ion quan trọng trong nước biển gây ra, do đó chúng ảnh hưởng đến các quá trình sinh lý của tôm (theo Lockwood, 1989; Davis và cộng sự, 2002; Davis và Saoud, 2004; Roy, 2006). Sự thiếu hụt các hợp chất ion chính như K, Na, Ca2+, Mg2+ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ sống và sự tăng trưởng của tôm trong các ao có độ mặn thấp (theo Collins và cộng sự, 2005).
Nếu thiếu hàm lượng K, Na, Ca2+, Mg2+ trong môi trường nước có độ mặn thấp sẽ ảnh hưởng đến sự mất cân bằng thẩm thấu của tôm. Thậm chí, khi nồng độ của các ion này trong chế độ ăn thấp, cũng sẽ tác động lớn đến các quá trình sinh lý và tăng trưởng của tôm. Davis và cộng sự (2005) đã chứng minh rằng nếu khẩu phần ăn của tôm được nuôi trong môi trường có độ mặn thấp hoặc độ mặn cao chứa ít hàm lượng khoáng chất sẽ làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng của tôm. Sự suy giảm đáng kể nhất xảy ra ở các ao có độ mặn thấp. Theo Saoud và cộng sự (2003) và Davis và cộng sự (2005), sự mất cân bằng tỷ lệ ion quan trọng như K+ và Mg2+ cũng đã hạn chế tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm. Các phát hiện của nghiên cứu trước đã cho thấy rằng việc bổ sung các khoáng chất quan trọng vào khẩu phần ăn với tỷ lệ thích hợp sẽ hỗ trợ đáng kể sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm trong môi trường có độ mặn thấp (theo Davis và cộng sự, 2002; và Davis và cộng sự, 2005).
Mục tiêu của nghiên cứu là điều tra tác động của việc bổ sung K+, Mg2+ và sự kết hợp của chúng đối với tốc độ tăng trưởng hàng tuần (dựa trên trọng lượng) ở tôm và khả năng thẩm thấu. Nghiên cứu đã bổ sung khoáng chất vào khẩu phần ăn của tôm với giả định rằng cách tiếp cận này sẽ có tác động tích cực hơn đến tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR), tăng trưởng tuyệt đối (∆G), tỷ lệ sống (SR) và khả năng thẩm thấu (OC) của tôm.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Nuôi trồng thủy sản (BBPBAP), Jepara vào năm 2009-2010. Nguyên liệu chính là chế độ ăn tiêu chuẩn có bổ sung khoáng K+ và Mg2+. Khoáng K trong KCl có nồng độ K là 1,47% x 100 g; và khoáng Mg từ dolomite CaMg(CO3)2 có nồng độ Mg là 0,41% x 100 g. Chế độ ăn kết hợp có nồng độ K = 1,21% x 100 g và Mg = 0,345% x 100 g. Tổng liều lượng của chế độ ăn chứa khoáng chất là 5% tổng trọng lượng tôm.
Thiết kế thí nghiệm là kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Nghiệm thức A: chế độ ăn tiêu chuẩn bổ sung 1% K+ (1g KCl / 100g khẩu phần)
- Nghiệm thức B: chế độ ăn tiêu chuẩn bổ sung 1% Mg2+ (1g dolomite / 100g khẩu phần)
- Nghiệm thức C: chế độ ăn kết hợp 0,5% K+ và 0,5% Mg2+
- Nghiệm thức D: chế độ ăn tiêu chuẩn không bổ sung khoáng chất ( nghiệm thức đối chứng)
Tất cả các loại khoáng chất đều sử dụng lòng đỏ trứng để tạo độ kết dính cho thức ăn viên.
Sinh vật chính trong thử nghiệm là ấu trùng tôm sú Penaeus monodon Fabricius 16 ngày tuổi (PL-16) từ cùng 1 lô tôm. Tôm post đã qua kiểm tra hình thái, kiểm tra sốc độ mặn và kiểm tra PCR (theo FAO, 2003). Sau đó, chúng được thuần trong bể sợi thủy tinh 4 ngày để trở thành tôm post 20 ngày tuổi (PL-20). Bể chứa PL-16 là bể xi lanh có đường kính 130 cm và thể tích 500 L. Độ mặn ban đầu là 25 ppt, sau đó sẽ giảm xuống còn 5 ppt để sử dụng cho toàn bộ thí nghiệm. Trọng lượng ban đầu của tôm post 20 ngày (PL20) dao động từ 0,0208 – 0,0212 g, trọng lượng trung bình là 0,021 g và độ lệch tiêu chuẩn 0,0001128. Thí nghiệm sử dụng bể PVC có kích thước: 60 x 32 x 35 cm với 48 lít nước biển, độ mặn là 5 ppt. Tổng thời gian của thử nghiệm là 44 ngày (theo Buckle và cộng sự, 2006).
Các biến số trong thử nghiệm bao gồm tỷ lệ tăng trưởng cụ thể (SGR), tỷ lệ sống sót (SR), tăng trưởng tuyệt đối (∆G) và khả năng thẩm thấu (OC) của ấu trùng.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Các chỉ số của môi trường nước trong quá trình nghiên cứu như sau: độ mặn 5 ppt, nhiệt độ 28,7 độ C, oxy hòa tan 6,6 ppm, tổng amoniac-nitơ 0,15 ppm và nitrit nitơ 0,05 ppm. Những chỉ số này được coi là những chỉ số môi trường thích hợp cho việc nuôi tôm nói chung. Kết quả của thí nghiệm về tốc độ tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng cụ thể và khả năng thẩm thấu được trình bày trong Bảng 1.
Kết quả phân tích dữ liệu sử dụng phân tích phương sai ANOVA cho thấy rằng tất cả các nghiệm thức bổ sung khoáng chất không ảnh hưởng đáng kể (P> 0,05) đến SGR và ∆G của tôm sú Penaeus monodon được nuôi trong môi trường có độ mặn thấp. Nghiệm thức C kết hợp giữa 2 khoáng chất K và Mg cho thấy mức tăng trưởng tuyệt đối cao nhất với 0,7023 g, tiếp theo là nghiệm thức A với 0,6421 g, nghiệm thức B với 0,5303 g và cuối cùng là nghiệm thức D với 0,4951 g. Kết quả này dựa trên giả định rằng sự kết hợp khoáng chất trong chế độ ăn đã hỗ trợ sự tương tác giữa các khoáng chất, góp phần giảm căng thẳng gây ra do thẩm thấu liên quan đến môi trường (theo Roy, 2006). Tất cả các nghiệm thức đều cho thấy tôm post phát triển bình thường với sự gia tăng cân nặng liên tục trong suốt quá trình nghiên cứu (Bảng 1). Tỷ lệ SGR cao nhất được nhận thấy ở nghiệm thức C với 8,03%, tiếp theo là nghiệm thức A với 7,73%, B với 7,37% và thấp nhất là nghiệm thức D với 7,23% (không bổ sung khoáng chất). Dữ liệu về tốc độ tăng trưởng hàng tuần cho thấy các nghiệm thức được bổ sung khoáng chất có sự gia tăng ổn định từ tuần 1 – tuần 7, trong đó, nghiệm thức C (kết hợp K và Mg) cho thấy tốc độ tăng trưởng cao nhất (Hình 1).
Một tuyên bố cụ thể hơn rằng mặc dù tôm có khả năng thích nghi với nhiều độ mặn khác nhau, nhưng người nuôi vẫn phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến sự thay đổi của cấu hình / tỷ lệ ion quan trọng giữa các ao (theo Soud và cộng sự, 2003) làm giảm sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Davis và cộng sự, 2004). Tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm được ghi nhận là tốt hơn khi bổ sung K+ vào nước nuôi để cải thiện tỷ lệ Na: K hoặc Cl: K (theo Saoud.IP và cộng sự, 2007). Mức độ K+, Na+, Mg2+ và Ca2+ trong gan tụy không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn giàu K+, Mg2+ hoặc NaCl trong các thử nghiệm (theo Roy và cộng sự, 2007).
Tỷ lệ tăng trưởng cụ thể hàng tuần (SGR) đã cho thấy một mô hình giảm dần đều (Hình 2), với tỷ lệ thấp nhất vào tuần 5 và tăng trở lại vào tuần 6. Tất cả các khoáng chất bổ sung trong chế độ ăn đã cho thấy tác động đáng kể đến khả năng điều hòa thẩm thấu (OC) (Fcal> F tab và P <0,05) với sự thay đổi môi trường nước biển như đã đề cập trước đó. Tất cả các nghiệm thức đều cho thấy tỷ lệ sống cao (SR) với nghiệm thức A: 95,83%; B: 5,83%; C: 91,67% và đối chứng D: 85,50%.
Những người dân ở Tây Alabama đã thành công trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei trên đất liền trong môi trường có độ mặn thấp bằng cách nâng cao nồng độ K+ và Mg2+ trong nước ao lên mức lý tưởng hơn (theo Roy và cộng sự, 2009). McNevin và cộng sự (2004) và Roy và cộng sự (2009) đã nhận thấy sản lượng tôm được nuôi trong môi trường có độ mặn thấp ở Alabama đã tăng khi nâng mức K+ từ 6,2 mg/L lên 40 mg/L và Mg2+ từ 4,6 mg/L lên 20 mg/L. Theo Cheng và cộng sự (2005) – Roy và cộng sự (2009), để tôm đạt được tốc độ tăng trưởng tối ưu nhất trong môi trường có độ mặn thấp thì cần khoảng 2,60 – 3,46 g/kg Mg2+ trong khẩu phần. Nghiên cứu của Roy và cộng sự (2009) đã chỉ ra rằng sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng không ảnh hưởng đáng kể khi bổ sung khoáng Mg2+ vào khẩu phần. Một số tác giả khác đã báo cáo rằng việc bổ sung khoáng chất vào khẩu phần ăn có thể ảnh hưởng đến khả năng thẩm thấu ở tôm (theo Gong và cộng sự, 2004 – Roy và cộng sự, 2009). Trong môi trường có độ mặn thấp, tôm duy trì sự cân bằng thẩm thấu và ion bằng cách giảm tốc độ vận chuyển của nước qua ruột, và tốc độ truyền natri (Na) và clorua (Cl) qua mang (theo Manik và cộng sự, 1979 – Navas và Sebastian, 1989). Tôm chỉ có thể sống sót khi các tế bào có thể dung nạp natri và clorua trong máu giảm. Để nâng tỷ lệ Na: K và Mg: Ca trong nước, người ta đã bổ sung K và Mg vào thức ăn, điều này cho phép tôm hấp thụ các ion này qua đường tiêu hóa. Việc bổ sung K và Mg vào khẩu phần ăn được khuyến cáo là một biện pháp có thể cải thiện khả năng sinh sản của tôm, đồng thời làm tăng tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống (theo Gong và cộng sự, 2004; Cheng và cộng sự, 2005; Saoud và Davis, 2005 ; Roy và cộng sự, 2006; Saoud và cộng sự, 2007).
Nguồn gốc của mẫu nước lợ và nước biển được sử dụng cho thí nghiệm được phân tích theo kết quả như trong Bảng 2 và Bảng 3. Các mẫu nước lợ có hàm lượng Ca là 26,16; Na: 1749,8; Na: K = 8,6: 1; Mg: K = 0,1: 1. Mẫu nước biển có hàm lượng Na+: 9160; Ca2+: 80; Na: K = 183,20: 1; Mg: K = 4,80: 1.
Bảng 1. Tăng trưởng tuyệt đối (∆G), tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) và Khả năng thẩm thấu (OC) của tôm sú Penaeus monodon được bổ sung khoáng K và Mg trong môi trường có độ mặn thấp (5 ppt) tại BBBAP Jepara
Trong đó:
R: lần lặp lại
Nghiệm thức: A: 1% K; B: 1% Mg; C: 0,5% K và 0,5% Mg; D: đối chứng (không bổ sung khoáng chất)
SGR Final: tốc độ tăng trưởng cuối cùng: Ln (Tổng tăng trưởng / 44 ngày);
∆G: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (Wt – Wo);
OC: khả năng thẩm thấu (mOsm/L)
Hình 1: Tỷ lệ tăng trưởng tích lũy hàng tuần của tôm sú Penaeus monodon được bổ sung khoáng K và Mg trong môi trường có độ mặn thấp tại BBAP Jepara
Hình 2: Tỷ lệ tăng trưởng cụ thể hàng tuần của tôm sú Penaeus monodon trong môi trường có độ mặn thấp tại BBBAP Jepara
Bảng 2: Hàm lượng ion (mg/L atau ppm) trong ao nước lợ với các độ mặn khác nhau tại Jepara
Bảng 3: Hàm lượng ion (mg/L atau ppm) trong mẫu nước biển với các độ mặn khác nhau
Kết quả phân tích khoáng chất cho thấy tỷ lệ các ion quan trọng như Na+, K+, Mg2+ và Ca2+ trong mẫu nước lợ với các độ mặn khác nhau được thể hiện trong Bảng 2. Kết quả thu được ở mẫu nước lợ khác với kết quả thu được ở mẫu nước biển. Tỷ lệ ion của các mẫu nước biển được thể hiện trong Bảng 3 cho thấy tỷ lệ Na: K cao hơn nhiều so với các ion khác. Tỷ lệ Na: K trong ao nước lợ là 8,6: 1 và Na: K trong mẫu nước biển là 183,20: 1. Sự khác biệt của tỷ lệ Na: K giữa ao nước lợ và mẫu nước biển tự nhiên khi đó được giả định là yếu tố giới hạn khả năng điều hòa thẩm thấu (OC) của nuôi tôm.
Dựa trên trạng thái cân bằng của nước biển (theo Castro và Huber, 2005), tỷ lệ các ion quan trọng phải luôn được duy trì ngay cả khi có độ mặn khác nhau. Tỷ lệ Na: K nằm trong khoảng từ 25,9: 1 – 27,0: 1. Tỷ lệ ion của ao nước lợ với các độ mặn khác nhau trong Bảng 2 cho thấy sự khác biệt so với mẫu nước biển trong Bảng 3. Điều này cho thấy chỉ số môi trường trong các ao nước lợ thấp hơn nhiều so với mẫu nước biển, do đó chúng không phải là môi trường lý tưởng để nuôi tôm.
Mantel và Farmer (1983) và Pequeux (1995) đã đánh giá rằng quá trình điều hòa thẩm thấu là một trong những yếu tố sinh lý quan trọng đối với các sinh vật dưới nước. Quá trình thẩm thấu trong nuôi trồng thủy sản có thể được xem là chỉ số đầu tiên để đánh giá chất lượng môi trường nước (theo Lignot và cộng sự, 2000 – Buckle và cộng sự, 2006). Khả năng điều hòa thẩm thấu (OC) tạo nên sự khác biệt / ngưỡng thẩm thấu của dịch tương với môi trường bên ngoài (theo Charmenter và cộng sự, 1989 – Buckle và cộng sự, 2006). Một số nhà nghiên cứu đã tiết lộ rằng các loài tôm khác nhau sẽ có các giai đoạn lột xác khác nhau, trong đó giá trị đẳng áp của tôm thẻ chân trắng là 717-823 mmol/kg (theo Chen và cộng sự, 1995). Ở giai đoạn đang phát triển của Fenneropenaeus chinensis, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng độ thẩm thấu máu sẽ tăng lên nếu nhiệt độ nước tăng và ngược lại. Tuy nhiên, điều này sẽ tạo ra một tác động khác đối với tôm L. vannamei. Việc nuôi tôm trên đất liền trong môi trường có độ mặn thấp đang gia tăng và có mức độ thành công đáng kể, nhưng vấn đề về tốc độ tăng trưởng dường như có liên quan đến việc tỷ lệ ion dưới mức tối ưu và khả năng hấp thụ của tôm ở một giai đoạn sống nhất định (theo Davis và Saoud, 2004).
PHẦN KẾT LUẬN
Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng các nghiệm thức được bổ sung khoáng chất vào chế độ ăn không ảnh hưởng đáng kể (F cal <F tab; P> 0,05) đến SGR và ∆G của tôm sú Penaeus monodon được nuôi trong môi trường có độ mặn thấp. Nghiệm thức C (với sự kết hợp của 0,5% K và 0,5% Mg) cho thấy mức tăng trưởng tuyệt đối cao nhất (0,7023 g), sau đó là nghiệm thức A (0,6421 g), B (0,5303 g) và D (0,4951 g). Tỷ lệ tăng trưởng cụ thể hàng tuần (SGR) đã cho thấy một mô hình giảm ổn định, với tỷ lệ thấp nhất vào tuần thứ 5 và tăng trở lại vào tuần thứ 6. Tất cả các nghiệm thức bổ sung khoáng chất trong chế độ ăn đã cho thấy có sự ảnh hưởng đáng kể đến khả năng điều hòa thẩm thấu (OC) với (Fcal> F tab và P <0,05) với sự thay đổi môi trường nước biển như đã đề cập trước đó. Tất cả các nghiệm thức đều cho thấy tôm post Penaeus monodon có tỷ lệ sống cao (SR), trong đó nghiệm thức A: 95,83%; B: 5,83%; C: 91,67% và đối chứng D: 85,50%.
Theo Djuwito, Sutrisno Anggoro, và Johanes Hutabarat
Nguồn: https://ejournal.undip.ac.id/index.php/ijmarcc/article/viewFile/7716/6346
Biên dịch: Huyền Thoại – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Cách Tối Ưu Hóa Khẩu Phần Ăn Cho Tôm Trong Trong Môi Trường Nuôi Độ Mặn Thấp
- Nuôi Tôm Và Loại Trừ Mầm Bệnh Qua Hình Thức Cạnh Tranh
- Công Ty Khởi Nghiệp Về Insights Nhận Được Khoản Tài Trợ 400.000 USD Liên Quan Đến Ngành Nuôi Tôm