Tóm tắt
Thực vật thủy sinh và các loài thương mại như cá thỏ, cá đối, cá trắm cỏ và nghêu là những ứng cử viên tiềm năng cho mô hình nuôi ghép. Cá đối là loài ăn lọc, thường bơi thành đàn gần mặt nước, ăn cặn trên mặt nước, phát triển mạnh ở cả nước ngọt và nước mặn. Thí nghiệm này được thực hiện từ ngày 24/5/2009 đến ngày 18/10/2009 trong ao nuôi tôm. Mật độ thả P. monodon là 5 con/m2 trong ao nuôi đơn và nuôi ghép, ngoài ra cá đối được thả trong 2 bể nuôi ghép 0,33 con/m2. Không có sự khác biệt đáng kể về độ pH, nồng độ oxy hòa tan và chất dinh dưỡng giữa ao đơn và ao ghép. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá khả thi và lợi nhuận của việc nuôi ghép tôm sú và cá đối. Nuôi ghép tôm sú và cá đối là phương pháp hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng của tôm trong ao nuôi ghép cao hơn tốc độ tăng trưởng của tôm trong ao nuôi đơn canh.
Giới thiệu
Nuôi trồng thủy sản nổi lên như một ngành kinh tế phát triển nhanh chóng, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn cung cấp thực phẩm cho thế giới. Năm 2004, ngành này đã sản xuất 106 triệu tấn cá thực phẩm, chiếm tới 43% tổng sản lượng thủy sản toàn cầu. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản trên thị trường quốc tế liên tục tăng cao, mở ra tiềm năng phát triển to lớn cho ngành trong tương lai. Tại Ấn Độ, hoạt động nuôi tôm thương mại chỉ xuất hiện từ giữa thập niên 1980, tương đối muộn so với các quốc gia châu Á khác. Nuôi tôm trong ao trở thành một trong những nguồn thu nhập chính cho người dân địa phương. Tuy nhiên, ngành nuôi tôm cũng phải đối mặt với thách thức lớn nhất là dịch bệnh. Nuôi ghép, hay còn gọi là nuôi nhiều loại thủy sản trong cùng một ao, được xem là giải pháp hiệu quả hơn so với nuôi đơn lẻ. Phương pháp này tận dụng tối đa nguồn thức ăn và không gian sẵn có, đồng thời mang lại lợi ích cộng sinh cho các loài nuôi. Ví dụ, một số loài có thể bổ sung nguồn thức ăn cho nhau, từ đó gia tăng tổng sản lượng thu hoạch trên một đơn vị diện tích. Tuy nhiên, do tính phức tạp và chưa được nghiên cứu đầy đủ, hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ghép P. monodon kết hợp với M. tade vẫn cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn.
Chuẩn bị nghiên cứu
Các thí nghiệm được thực hiện trong các ao nuôi tôm nằm ở vĩ độ Bắc 22° 44′ và 22° 41′ và kinh độ Đông 71° 00′ và 70° 52′ làng Patelwadi thuộc vùng Diu, Saurashtra. Thí nghiệm được tiến hành từ ngày 24/5/2009 đến ngày 18/10/2009 tại ao số 1 và ao số 2 diện tích 0,8 ha WSA (diện tích rải nước) và một ao làm hồ chứa. Nước được bơm bằng động cơ 10 HP. Việc chuẩn bị ao nuôi, bón phân, thức ăn bổ sung được áp dụng theo đúng tiêu chuẩn. Hạt giống P. monodon được mua từ trại giống thương mại trong khi M. tade được thu thập từ bờ biển có trọng lượng 3,78 ± 12,58 g. M. tade được thu thập và cho thích nghi trong bể xi măng trong thời gian 10 ngày và được cho ăn bằng cám gạo, bánh dầu lạc và bột hỗn hợp bột cá (1:0,2:0,5). M. tade được thả với số lượng 2653 con/ 0,8 ha ao nuôi vào ngày 07 tháng 5 năm 2009 mà không cần cho ăn trung bình. trọng lượng 6,16 ± 0,49 g trong khi hạt P. monodon được thả với mật độ 40000 con/ ha so với trọng lượng ban đầu là 0,05 ± 0,0 g trong các ao nuôi đơn cũng như nuôi ghép. P. monodon được cho ăn bằng thức ăn viên theo kỹ thuật tiêu chuẩn.
Tôm giống P. monodon (PL 15) được thu mua từ trại giống thương mại và vận chuyển trong túi polythene oxy hóa (1500 contúi) có trọng lượng ban đầu là 0,005 ± 0,0g. Tôm được thích nghi trong bể FRP dung tích 1000 lít trong 1 đến 2 giờ trước khi thả vào ao nuôi đơn. Sau đó nuôi ghép tôm với cá M. tade bằng hệ thống ống mềm có đường kính 2 inch. Tôm được cho ăn thức ăn thương mại 2 lần mỗi ngày, trong khi cá M. tade không được cho ăn. Trọng lượng tôm được đo hai tuần một lần bằng cân điện tử Shimazu (model AEL200). Tăng trưởng trung bình hàng ngày (ADG) và sinh khối được tính toán theo Chanratchakool và cộng sự trong khi đánh giá tăng trưởng của M. tade là mỗi tháng một lần. Các thông số chất lượng nước như nhiệt độ (°C), độ pH và oxy hòa tan (mg/l) được đo theo Trivedy và Goel trong khi độ mặn (‰) theo Katznelson. Ước tính nitơ nitrat (NO3 -N) ((mg/l) và tổng photphat (PO4) ((mg/l) lần lượt theo Trivedy và Goel và Gupta. Amoniac được xác định theo mô tả của Allan và cộng sự.
Kết quả và thảo luận
Tôm, cua, cá măng và cá đối thường được nuôi ghép cùng nhau. Ấn Độ đã thử nghiệm nuôi cá măng biển và cá đối trong ao nước mặn. Nuôi ghép C. chanos, Valamugil seheli (cá đối), Liza macrolepis và tôm thẻ chân trắng P. indicus cho năng suất 1364 – 1864 kg/ha. Nuôi ghép V. seheli và Chanos cho năng suất 1422-1600 kg/ha. Tại Tuticorin (bờ biển phía đông nam Ấn Độ), sản lượng ước tính đạt 499-739 kg/ha/giờ khi nuôi ghép cá măng, cá đối và tôm.
Chất lượng nước tốt là điều cần thiết cho sự phát triển của tôm và cá. Các thông số chất lượng nước trong nghiên cứu này nằm trong phạm vi chấp nhận được cho nuôi tôm. Nhiệt độ nước dao động từ 29,2 ± 1,55°C. Mức nhiệt độ này phù hợp cho sự phát triển của tôm sú. Độ mặn được duy trì ở mức 24-31%. Độ mặn khuyến nghị 18-25% là lý tưởng cho tôm phát triển. Độ pH dao động từ 8,3 đến 8,4. Mức độ pH này phù hợp cho sự phát triển tối ưu của tôm. Ramakrishna Reddy được khuyến nghị độ pH từ 7,5 đến 8,5 cho nuôi cấy P. monodon. Lượng oxy hòa tan trong ao nuôi dao động từ 4,7 đến 5,01 mg/l. Amoniac, nitrat và phốt phát được ghi nhận ở mức tối ưu trong nghiên cứu này (Bảng 1).
Hình 1: Thông số chất lượng nước trung bình trong ao nuôi đơn (P1) và nuôi ghép (P2)
Bảng 1: Thông số chất lượng nước trung bình trong ao nuôi đơn (P1) và nuôi ghép (P2)
Thức ăn đóng vai trò quan trọng trong lợi nhuận nuôi tôm, tuy nhiên việc quản lý thức ăn thường gặp khó khăn do không thể quan sát trực tiếp lượng thức ăn tiêu thụ. Nghiên cứu này so sánh hiệu quả sử dụng thức ăn và năng suất vụ nuôi giữa mô hình nuôi ghép (P2) và nuôi đơn canh (P1) sử dụng thức ăn CP. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tối đa được ghi nhận (1,6) trong ao nuôi ghép (P2) và tối thiểu (1,2) được ghi nhận trong ao nuôi đơn (P1). Việc lấy mẫu định kỳ là rất quan trọng để theo dõi sự phát triển của tôm giúp ước tính tổng sinh khối và quản lý thức ăn hiệu quả. Trong nghiên cứu này, việc lấy mẫu được thực hiện từ DOC thứ 40 trở đi (2 tuần/lần). Tỷ lệ sống cao hơn (82,6%) được ghi nhận ở ao nuôi đơn và tỷ lệ sống thấp hơn (P. monodon 72% và M. tade 78,4%) ở ao nuôi ghép. Trong nghiên cứu này, 40000 con P. monodon được thả vào mỗi ao. Nhưng trong ao P2 cùng với P. monodon cũng thả 2653 con cá đối. Tăng trưởng tối đa đạt được ở ao P2 (38,27grms), tiếp theo là ao P2 (38,27grms) và tiếp theo là tôm ao 422,4kg cá đối cũng được thu hoạch ở kích cỡ 203,24grms. Như vậy việc sản xuất đã làm tăng lợi nhuận ở ao P2, đồng thời làm sạch đáy ao, giảm tải hữu cơ cho ao. Vì vậy, nghiên cứu này cho thấy rằng nuôi ghép thì tốt hơn là nuôi đơn canh. Điều này là do quản lý tốt hơn chất lượng nước và thức ăn.
Bảng 2: Tính kinh tế của ao nuôi đơn canh và nuôi đa canh
Theo S. Kotiya Anil, B. Gunalan, K.L. Jetani, G. Kuldeep Trivedi and P. Soundarapandian
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Ảnh Hưởng Của Nồng Độ Kẽm Đến Hiệu Suất Tăng Trưởng Của Tôm Thẻ Chân Trắng Litopenaeus vannamei
- Một Tập Hợp Bộ Gen Cấp Độ Nhiễm Sắc Thể Mới Của Tôm Thẻ Chân Trắng
- Mối Tương Quan Giữa Các Đặc Tính Khoáng Chất Chính Trong Môi Trường Ao Nước Lợ Và Tôm Thẻ Chân Trắng Litopenaues vannamei: Tỷ Lệ Sống, Tăng Trưởng Và Sản Xuất