Cải thiện tăng trưởng, tăng khả năng sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống cao là lợi ích mà loại phụ phẩm thủy sản này chưa được khai thác hiệu quả.
Nghiên cứu này đánh giá phụ phẩm chế biến từ tôm nâu (BSPR) như một thành phần trong chế độ ăn của tôm thẻ chân trắng. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng và khả năng sử dụng thức ăn của tôm thẻ L. vannamei được cải thiện khi BSPR được đưa vào cho tỷ lệ cao hơn so với bột cá, và BSPR là một thành phần thức ăn phù hợp cho chế độ ăn của tôm thẻ L. vannamei. Ảnh của Biso, Wikimedia Commons.
Tôm nâu (Crangon crangon) là nguồn thủy sản quan trọng nhất ở phía nam Biển Bắc với sản lượng đánh bắt hàng năm khoảng 30.000 tấn và lượng phụ phẩm chế biến chiếm đến 21.000 tấn. Những phụ phẩm này chứa một lượng đáng kể các chất dinh dưỡng quan trọng (521 g/kg protein thô, 15 MJ/kg năng lượng thô, 74 g/kg lipid tổng) đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có đủ thông tin về việc phụ phẩm chế biến tôm nâu (BSPR) ảnh hưởng như thế nào đến sự tăng trưởng và sinh lý của tôm thẻ L. vannamei khi được thêm vào chế độ ăn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống là các thông số được quan tâm hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản, nhưng các thông số trao đổi chất và miễn dịch học cung cấp những thông tin cụ thể hơn về chức năng của thành phần (tích cực hoặc tiêu cực) và điều kiện dinh dưỡng của các loài được nghiên cứu.
Bài báo này tóm tắt kết quả của một nghiên cứu (Fricke, E. và cộng sự, 2023. Phụ phẩm từ chế biến tôm nâu (Crangon crangon) thúc đẩy tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Aquaculture tập 569, ngày 15 tháng 5 năm 2023, 739367), đánh giá mức bổ sung thích hợp của BSPR vào chế độ ăn cho tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).
Thiết lập nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Địa cực và Biển Alfred Wegener Institute Helmholtz ở Đức – điều tra về sự thích hợp của phụ phẩm chế biến từ tôm nâu (BSPR) làm nguyên liệu thức ăn cho tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Hai thử nghiệm cho ăn sử dụng tôm thẻ chân trắng L. vannamei chưa trưởng thành được tiến hành để xác định hiệu suất tăng trưởng, khả năng sử dụng thức ăn, hoạt động của enzyme tiêu hóa và các thông số khác.
Thử nghiệm bao gồm một chế độ ăn đối chứng sử dụng bột cá, và hai chế độ ăn thử nghiệm thay thế 50% và 100% bột cá bằng BSPR để xác định khả năng phù hợp của các chế độ ăn. Sau đó, các loại thức ăn tương tự được sử dụng cho thử nghiệm 39 ngày để đánh giá tác động của BSPR đối với tỷ lệ sống, tăng trưởng, tần suất lột xác, thành phần hóa học tổng của mô cơ, hoạt động của enzyme tiêu hóa và mức độ hemocyanin trong tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Thức ăn thử nghiệm được xây dựng để đáp ứng các yêu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Tất cả các chế độ ăn được xây dựng tương tự nhau về mức protein tiêu hóa và năng lượng, giả sử hệ số protein biểu kiến và tiêu hóa năng lượng của BSPR là 86,2% và 81,5%. Để duy trì kích thước hạt của hỗn hợp thức ăn, tất cả các thành phần được xử lý thành bột (<500 micromet). Để biết thêm chi tiết về thiết lập nghiên cứu, vui lòng tham khảo bài báo gốc.
Kết quả và thảo luận
Tôm thẻ chân trắng đã sẵn sàng chấp nhận tất cả các chế độ ăn thử nghiệm dạng viên, vì không quan sát thấy hiện tượng từ chối thức ăn. Thời gian cần thiết để tôm bắt đầu ăn thức ăn viên trung bình dao động từ 18 – 25 giây. Thức ăn chứa 50% bột cá và 50% BSPR được tôm tiếp cận nhanh nhất (18 ± 4 giây), tiếp theo là nhóm đối chứng (20 ± 4 giây) và cuối cùng là nhóm chứa 100% BSPR (25 ± 5 giây). Sự khác biệt về thời gian tiếp cận không có ý nghĩa thống kê.
Tốc độ tăng trưởng thấp nhất khi cho tôm ăn chế độ ăn đối chứng với mức tăng trọng trung bình là 66 ± 7%. Tăng trọng trung bình cao hơn một chút trong nghiệm thức chứa 100% BSPR (68 ± 24%) nhưng có sự biến động cao. Tốc độ tăng trưởng cao nhất khi tôm cho ăn 50% BSPR (94 ± 9%), vượt xa hiệu suất của nhóm đối chứng gần 30%. Do có sự biến động cao trong nghiệm thức 100% BSPR nên không có sự khác biệt thống kê khi so sánh tất cả các giá trị trung bình với nhau. Tuy nhiên, khi so sánh trực tiếp với nhóm đối chứng, trọng lượng cuối cùng và tăng trọng của tôm được cho ăn 50% BSPR có ý nghĩa thống kê.
Các nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi được thay thế từ các nguồn phụ phẩm thủy sản có tiềm năng lớn để trở thành giải pháp bền vững và có giá trị kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế xanh. Trong nghiên cứu này, các thử nghiệm cho ăn lặp lại cho thấy tỷ lệ sống cao và tăng trưởng tốt của tôm thẻ L. vannamei khi bột cá được thay thế bằng BSPR. Thành phần tổng của mô cơ tôm không thay đổi về độ ẩm, protein và lipid. Những kết quả này chỉ ra rằng BSPR cung cấp các chất dinh dưỡng cân bằng, dễ tiêu thụ và tốc độ tăng trưởng tăng không ảnh hưởng đến thành phần mô cơ.
Sự hấp dẫn của thức ăn và thành phần thức ăn đóng vai trò chính trong công thức thức ăn. Nó có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến mức tiêu thụ thức ăn và cuối cùng là hiệu suất tăng trưởng của vật nuôi. Chúng tôi quan sát thấy rằng tôm tiếp cận và bắt đầu ăn thức ăn có chứa BSPR tốt như chế độ ăn có chứa bột cá, bất kể ở mức độ bổ sung nào. Do đó, việc bổ sung BSPR vào chế độ ăn dường như không ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận thức ăn trong điều kiện nuôi trong bể.
Tác dụng tăng trưởng của bột giáp xác trong thức ăn cho tôm he đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. So với các loại bột giáp xác khác, BSPR trong nghiên cứu hiện tại kém hiệu quả hơn trong việc kích thích tăng trưởng, ví dụ như kém hơn so với bột krill. Điều này có thể do quá trình chế biến khác nhau của BSPR (nấu, đông lạnh, sấy khô) đã làm suy giảm một số chất dinh dưỡng hoặc thành phần thức ăn chăn nuôi có lợi.
Tốc độ tăng trưởng tăng trong nghiên cứu của chúng tôi có thể chủ yếu dựa trên lợi ích dinh dưỡng và/hoặc chức năng cụ thể của BSPR. Các chế độ ăn thử nghiệm được sử dụng trong nghiên cứu chứa các mức năng lượng và protein tiêu hóa tương tự nhau và đáp ứng các yêu cầu về chế độ ăn của tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Hàm lượng axit amin thiết yếu (EAA) của các chế độ ăn được sử dụng trong thử nghiệm về hiệu suất tăng trưởng không cho thấy sự khác biệt lớn so với các chế độ ăn khác, và tất cả hàm lượng EAA đều vượt qua yêu cầu dinh dưỡng về chế độ ăn. Chỉ có leucine cho thấy mức độ cao trong chế độ ăn có chứa hàm lượng cao BSPR so với chế độ ăn chứa bột cá (29,4 so với 24,8 g/kg). Nhu cầu leucine trong chế độ ăn đối với tôm he là 13–15 g/kg. Do đó, không thể chắc chắn là sự khác biệt về tăng trưởng là do hạn chế về protein hoặc axit amin.
Tôm thẻ L. vannamei ăn khẩu phần có chứa BSPR cho thấy tính đồng bộ lột xác cao hơn và tần suất lột xác cao hơn đáng kể. Một phần lớn của BSPR bao gồm vỏ tôm. Chitin hoặc các chất khác có trong ma trận protein-chitin của lớp biểu bì bị vôi hóa có thể tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành lớp vỏ ngoài mới và do đó hỗ trợ quá trình lột xác ở tôm thẻ L. vannamei. Chúng tôi không quan sát thấy bất kỳ ảnh hưởng nào của chế độ ăn đối với mức độ haemocyanin (protein vận chuyển oxy đi khắp cơ thể của một số động vật không xương sống); nồng độ haemocyanin đo được trong nghiên cứu này nằm trong phạm vi bình thường đối với tôm thẻ L. vannamei trong bể nuôi trong nhà.
Việc sử dụng hiệu quả các chất dinh dưỡng phụ thuộc vào hoạt động cân bằng của các enzym tiêu hóa trong và ngoài tế bào. Tôm thẻ L. vannamei có chứa một loạt các enzyme tiêu hóa và isoenzyme khác nhau, cho phép tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng và bù đắp cho sự mất cân bằng dinh dưỡng và ức chế enzyme. Nhưng kết quả của chúng tôi cho thấy rằng việc bổ sung BSPR vào chế độ ăn không ảnh hưởng nhiều hoặc kích thích các hoạt động của enzyme tiêu hóa chính trong tuyến ruột giữa của tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Do đó, tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng L. vannamei ở mức BSPR cao hơn không thể được quy là do việc tăng hoạt động của enzyme tiêu hóa.
Quan điểm
Phụ phẩm chế biến tôm nâu (BSPR) là một thành phần thức ăn dựa trên phụ phẩm tuyệt vời cho tôm thẻ chân trắng L. vannamei được nuôi trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn. BSPR có giá trị dinh dưỡng cao hơn đối với tôm thẻ L. vannamei so với bột cá được sử dụng trong nghiên cứu này làm từ thịt vụn và phụ phẩm của nhiều loài khác.
Mức thay thế bột cá tối ưu là 85% hoặc 306 g/kg BSPR tổng lượng thức ăn. Cải thiện tăng trưởng, tăng khả năng sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống cao là nền tảng cho chất lượng của phụ phẩm thủy sản chưa được khai thác hiệu quả này. Lý do chính xác cho hiệu suất tăng trưởng được cải thiện vẫn chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, các chất dinh dưỡng quan trọng có sẵn và cân bằng tốt, cùng với các hợp chất liên quan đến lớp vỏ ngoài của tôm nâu, và có thể là các peptide giống insulin, đã thúc đẩy tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng L. vannamei.
Theo Thạc sĩ Enno Fricker
Biên dịch: Huyền Thoại- Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Phần 1 – Nghiên Cứu Về Hoạt Động Kiếm Ăn Của Tôm Thẻ Chân Trắng Dựa Trên Phát Hiện Âm Thanh Thụ Động
- Phần 2 – Nghiên Cứu Về Hoạt Động Kiếm Ăn Của Tôm Thẻ Chân Trắng Dựa Trên Phát Hiện Âm Thanh Thụ Động
- Nuôi trồng thủy sản đang đổi mới để giảm stress cho cá và cải thiện phúc lợi động vật