Thâm canh lúa gạo
Nông dân Khmer trồng lúa ở vùng đồng bằng có lẽ khoảng 2000 năm (Chương 1). Bắt đầu từ thế kỷ 18, dưới triều Nguyễn mở rộng, người Việt Nam bắt đầu di cư đến Đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng diện tích trồng lúa (Xuan và Matsui 1998; Le Coq và cộng sự 2001). Nông dân thường định cư dọc theo đê sông, ven biển và trên các cồn cát. Trang trại điển hình bao gồm một trang trại (thường là nuôi gia súc), ao hồ (được sử dụng để nuôi trồng thủy sản hoặc làm nơi trú ẩn cho cá tự nhiên và để sử dụng nước sinh hoạt), đê và vườn trồng cây và hoa màu, và ruộng lúa để trồng lúa (đôi khi kết hợp với cá hoặc nuôi tôm) (Xuan và Matsui 1998). Trong một số hệ thống, nông dân đào mương làm nơi trú ẩn cho cá tự nhiên và làm luống cao cạnh để trồng cây hàng năm như mía (Nguyen, HC 1994).
Trong thế kỷ 18 và 19, vùng đồng bằng ngập lũ trồng lúa địa phương vào mùa mưa, sử dụng các giống lúa nổi hoặc lúa nước sâu ở các vùng ngập sâu như Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên (Le Coq và cộng sự 2001; Biggs và cộng sự 2009). Sau khi thu hoạch lúa nổi vào tháng 12, nông dân trồng các loại cây trồng ngoài đồng như đậu xanh, khoai lang và ngô, thu hoạch vào tháng 2 hoặc tháng 3 (Xuan và Matsui 1998; Nguyen, HC 1994). Hầu hết các vùng đồng bằng sử dụng các giống truyền thống, nhạy cảm với ánh sáng (Nguyen, HC 1994; Xuân và Matsui 1998). Các giống chín sớm được trồng ở Khu liên hợp ven biển để cho phép thu hoạch trước tháng 11 khi nước mặn xâm nhập vào ruộng lúa. Các giống trưởng thành trung bình được trồng ở vùng đồng bằng phù sa bị ảnh hưởng bởi thủy triều (mực nước khó kiểm soát). Các giống chín muộn được trồng ở vùng trũng có nguy cơ bị ngập lụt. Lúa nổi hoặc lúa nước sâu chủ yếu được trồng ở các vùng trũng, nơi không thể tránh khỏi lũ lụt vào mùa mưa—Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên (Nguyen, HC, 1994; Nguyen và Howie 2018).
Sự phát triển của ĐBSCL đối với các hệ thống canh tác lúa gạo có thể được chia thành ba giai đoạn: (1) thích ứng với các điều kiện hiện tại, (2) bán kiểm soát và (3) kiểm soát toàn diện (Le Coq và cộng sự 2001; Kakonen 2008; Biggs và cộng sự 2009; Trong 200 năm đầu định cư của nông dân Kinh, có rất ít hoặc không có cơ sở hạ tầng phục vụ trồng lúa, ngoại trừ các kênh mương mà nông dân xây dựng. Nông dân chỉ trồng một vụ lúa mỗi năm khi có điều kiện phù hợp, dù là lúa mùa mưa truyền thống hay lúa nổi. Họ cũng thu hoạch cá tự nhiên trên ruộng lúa vào mùa mưa và trồng rau vào mùa khô (Vo 1975; Nguyen, HC 1993).
Sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng thủy lợi từ giữa những năm 1970 đã mở ra cánh cửa cho thâm canh sản xuất lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long (Le Coq và cộng sự, 2001; Kakonen, 2008; Biggs và cộng sự, 2009 Vùng đất cao duy trì canh tác một vụ lúa địa phương vào mùa mưa. Vùng Đồng bằng áp dụng giống lúa hiện đại cho một hoặc hai vụ lúa. Việc xây dựng đê thấp và hệ thống thủy lợi tại đây đã tạo điều kiện cho việc thâm canh. Nhiều nông dân sử dụng máy bơm dòng chảy dọc trục (hay “đuôi tôm”) được phát triển tại địa phương để tiếp cận nguồn nước tưới (Nguyen, VK và cộng sự, 2016; Biggs và cộng sự, 2009).
Từ năm 1996, chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh đầu tư vào việc nâng cấp đê và mở rộng hệ thống kênh mương nội đồng (Yasuyuki, 2001; Biggs và cộng sự, 2009; Nguyen, VK và cộng sự, 2016). Nhờ vậy, việc trồng lúa ba vụ trở nên phổ biến trên diện rộng. Ví dụ, nông dân ở huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã bắt đầu canh tác ba vụ vào cuối những năm 1990 (Berg và cộng sự 2017). Các tỉnh An Giang và Đồng Tháp cũng triển khai đắp đê để trồng ba vụ và đạt được những thành tựu to lớn nhất sau năm 2000 (Nguyen và cộng sự, 2016). Chính phủ trung ương đã trực tiếp hỗ trợ tài chính cho các tỉnh, huyện và xã để xây dựng đê điều, qua đó mở rộng diện tích trồng ba vụ, kể cả ở những khu vực thường xuyên bị ngập lụt trong mùa mưa. Diện tích đất được tưới tiêu tăng từ 52% (năm 1990) lên 91% (năm 2002) so với tổng diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (CGIAR, 2016).
Nhờ sự mở rộng của hệ thống thủy lợi và việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến, diện tích trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng đáng kể, từ 3,2 triệu ha năm 1995 lên 4,3 triệu ha vào năm 2016, với tốc độ tăng trưởng trung bình 1,4% mỗi năm (Hình 17). Phần lớn sự gia tăng này đến từ vụ mùa mưa (mùa thu), khi tỷ trọng diện tích gieo trồng tăng từ 44% lên 55%. Trong khi đó, nông dân có xu hướng chuyển đổi từ vụ đông trong mùa khô sang vụ xuân, sử dụng các giống lúa lai năng suất cao (HYV). Vụ đông giảm xuống chỉ còn chiếm 8% tổng diện tích, còn vụ xuân tăng từ 32% lên 36%, đặc biệt mạnh trong giai đoạn 1995–2000. Ngoài ra, nhiều hộ nông dân cũng thay thế lúa mùa bằng các cây trồng vụ khô khác như ngô, khoai lang, sắn, rau màu hoặc để đất trống. Riêng tại các vùng ven biển, xu hướng phổ biến là chuyển sang nuôi tôm nước lợ trong mùa khô.

Tổng sản lượng lúa đã tăng gấp đôi từ 12,8 triệu tấn năm 1995 lên 24,2 triệu tấn năm 2016, tăng 3,2% hàng năm (Hình 17.5). Sản lượng tăng gần bằng nhau do tăng diện tích trồng và tăng năng suất. Năng suất của vụ thu chính tăng từ 3,8 tấn/ha lên 5,3 tấn/ha, vụ xuân từ 5,2 tấn/ha lên gần 7,0 tấn/ha và vụ đông từ 2,9 tấn/ha lên 4,3 t/ha (Hình 17.5). Năng suất tăng trong tất cả các mùa là do quản lý nước tốt hơn, sử dụng HYV và sử dụng phân bón nhiều hơn.

Mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long đều ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, ngành lúa gạo khu vực này vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức đáng kể (Nguyen, DC 2011). Trọng tâm là sản xuất gạo năng suất cao nhưng chất lượng thấp, giá thành lúa tại trang trại thấp, đặc biệt đối với sản phẩm xuất khẩu (Demont và Rutsaert 2017). Mặc dù năng suất tăng nhờ sử dụng nhiều đầu vào hơn, lợi nhuận ròng của người trồng lúa vẫn ở mức thấp (Berg và cộng sự 2017). Lượng phân bón sử dụng đã tăng mạnh từ 40 kg/ha (1976-1981) lên 120 kg/ha (1987-1988) và vượt quá 600 kg/ha vào năm 2015 (Nguyen và cộng sự 2018). Việc sử dụng thuốc trừ sâu đã tăng từ 3 đến 6 lần từ năm 2000 đến năm 2015. Chi phí của những đầu vào này cũng tăng lên, làm tăng thêm áp lực chi phí mà nông dân đang phải đối mặt.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể về năng suất và sản lượng, ngành sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với nhiều thách thức môi trường nghiêm trọng. Quá trình thâm canh lúa kéo dài cùng việc lạm dụng hóa chất nông nghiệp đã dẫn đến ô nhiễm đất và nguồn nước (Nguyen, DC và cộng sự, 2015; Berg và cộng sự, 2017), đồng thời làm suy giảm nguồn cá tự nhiên (Nguyen và cộng sự, 2018). Ngoài ra, khu vực này còn đặc biệt dễ tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm mực nước biển dâng, lũ lụt gia tăng và tình trạng xâm nhập mặn, nhất là tại vùng ven biển và bán đảo Cà Mau (Dasgupta và cộng sự, 2007; Phạm & Furukawa, 2007; Bộ TNMT, 2009). Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng xâm nhập mặn đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến cả hệ thống canh tác lúa đơn thuần lẫn mô hình lúa–tôm (Mainuddin và cộng sự, 2011, 2013; Ling và cộng sự, 2015; Thủy & Anh, 2015; USAID, 2016; Leigh và cộng sự, 2017; Stewart-Koster và cộng sự, 2017).
Đa dạng hóa hệ thống canh tác lúa gạo
Nông dân Đồng bằng sông Cửu Long từ lâu đã kết hợp trồng lúa với các hoạt động sinh kế khác, tạo nên nhiều hệ thống canh tác lúa gạo độc đáo phù hợp với từng vùng sinh thái nông nghiệp riêng biệt. Nhằm đa dạng hóa sản xuất và đáp ứng nhu cầu thị trường, một loạt hệ thống canh tác mới đã được phát triển từ những năm 1990 (Bosma và cộng sự, 2005; Tong, 2017) bên cạnh xu hướng sản xuất lúa gạo truyền thống. Hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long có bảy hệ thống canh tác chủ yếu dựa vào lúa gạo (Xuan và Matsui, 1998):
- Lúa-lúa-lúa
- Lúa-lúa
- Lúa-cây trồng vùng cao
- Lúa-gia súc
- Lúa-cá tự nhiên
- Lúa-các loài thủy sản nước ngọt
- Lúa- các loài thủy sản nước mặn
Ngoài ra, tình trạng chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng cây ăn trái diễn ra phổ biến ở vùng đồng bằng ngập lũ. Xu hướng trong các hệ thống canh tác trong 40 năm qua được tóm tắt trong Bảng 17.3.
Bảng 17.3 Xu hướng hệ thống canh tác ở các đơn vị địa hình chính, 1976–2016
Đơn vị địa hình | Tiểu đơn vị địa hình | Hệ thống canh tác | Xu hướng |
Vùng ngập lũ thượng nguồn | Đê tự nhiên | Vườn nhà + cây trồng vùng cao đông xuân
Lúa đông xuân + lúa hè thu Lúa đông xuân + đay hè thu Cây trồng vùng cao đông xuân + lúa hè thu |
Tăng
Tăng giảm Tăng |
Đầm lầy hạ nguồn | |||
Vùng ngập lũ mở | Lúa nổi + hoa màu vùng cao
lúa đông xuân Dứa + hạt điều |
giảm
giảm giảm |
|
Vùng ngập lũ khép kín | Lúa hè thu + lúa đông xuân
Lúa nổi + khoai mỡ + lúa địa phương Tràm + ong + cá |
Tăng
giảm giảm |
|
Vùng ngập lũ bị ảnh hưởng bởi thủy triều | Đê tự nhiên và đầm lầy hạ nguồn | Khu nhà và vườn cây ăn quả
Lúa địa phương + cây trồng vùng cao Lúa hè thu + lúa đông xuân Lúa hè thu + lúa địa phương Lúa đông xuân + lúa xuân hè + lúa hè thu |
Tăng
giảm giảm giảm Tăng |
Vùng trũng nước ngọt rộng | Lúa địa phương
Khoai lang + lúa thu đông (HYVs) Lúa hè thu + lúa đông xuân |
giảm
giảm Tăng |
|
Vùng trũng rộng | Vùng trũng rộng | Lúa hè thu + lúa địa phương
Lúa địa phương Lúa thu đông (HYV) Cây tràm + cá + ong |
giảm
giảm Tăng giảm |
Khu phức hợp ven biển | Đồng bằng ven biển | Lúa mùa mưa (HYV)
Lúa địa phương kết hợp với HYV Lúa thu đông (HYV) + tôm Lúa hè thu sau xả lũ Vườn dừa + cá + tôm Cây vùng cao + vườn cây ăn trái trên luống |
giảm
giảm Tăng giảm giảm giảm |
Như đã mô tả ở phần trước, việc trồng lúa hai vụ và ba vụ đã được mở rộng chủ yếu ở vùng đồng bằng ngập lũ và các vùng trũng rộng lân cận. Các hệ thống trồng lúa xen kẽ và cây trồng cạn đã được mở rộng trên các đê tự nhiên và đầm lầy hạ nguồn, vùng ngập lũ thượng nguồn và trên các dải cát ven biển. Các hệ thống trồng lúa-chăn nuôi, trong đó ruộng lúa được sử dụng để trồng lúa trong khi vịt, gà, lợn, bò hoặc trâu được nuôi trong sân nhà, được áp dụng ở hầu hết các vùng của Đồng bằng (Xuan và Matsui 1998). Hệ thống nuôi cá tự nhiên và lúa được tìm thấy ở bán đảo Cà Mau, Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Nông dân chỉ trồng một vụ lúa địa phương từ tháng 5 đến tháng 12 và thu hoạch cá tự nhiên từ ruộng lúa và kênh rạch trong mùa trồng trọt. Hệ thống nuôi trồng lúa-nước ngọt (cá và tôm nước ngọt) hầu hết đã được mở rộng ở các tỉnh Tiền Giang và Cần Thơ ở vùng đồng bằng ngập lũ bị ảnh hưởng bởi thủy triều (Berg và cộng sự 2017; Håkan 2002; Xuân và Matsui 1998). Từ năm 2000, với khả năng kiểm soát lũ lụt tốt hơn, hệ thống lúa-tôm nước ngọt đã được mở rộng đến các vùng ngập sâu của tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười) (Nguyen, VK 2014). Các hệ thống nuôi tôm nước lợ và lúa đã phát triển hơn 80 năm và được áp dụng ở các tỉnh ven biển Đồng bằng (Xuan và Matsui 1998; USAID 2016). Nông dân trồng một vụ lúa địa phương vào mùa mưa, khi lượng mưa và dòng nước ngọt giúp đẩy bớt độ mặn ra khỏi ruộng lúa và cải tạo ruộng để nuôi tôm nước lợ vào mùa khô. Các hệ thống trồng lúa chính sẽ được thảo luận chi tiết hơn dưới đây.
Lúa và cây trồng vùng cao
Trước đây, nông dân Việt Nam chủ yếu canh tác lúa trên những cánh đồng gần nhà. Tuy nhiên, những năm gần đây, họ đã bắt đầu xen canh lúa với nhiều loại cây trồng khác trong một số mùa vụ nhằm tăng thu nhập và đa dạng hóa sản xuất. Xu hướng này nhận được sự khuyến khích mạnh mẽ từ Chính phủ, vốn trước kia tập trung chủ yếu vào việc đảm bảo sản xuất lúa gạo trên toàn bộ diện tích Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD) đã ban hành Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2014–2020, trong đó đề xuất sử dụng đất trồng lúa linh hoạt hơn. Theo kế hoạch, một phần diện tích lúa được chuyển đổi sang trồng các cây khác như ngô, đậu tương, vừng, rau màu, hoa, cây thức ăn chăn nuôi hoặc nuôi trồng thủy sản. Diện tích lúa dự kiến giảm khoảng 316.000 ha (tương đương 7% diện tích năm 2013), chủ yếu vào mùa khô, nhường chỗ cho các loại cây trồng khác, trong đó ngô (83.000 ha) và rau, hoa (87.000 ha) chiếm tỷ lệ lớn. Đến năm 2017, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết về phát triển bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặt nền tảng cho việc giảm diện tích lúa ba vụ và thúc đẩy đa dạng hóa hệ thống canh tác. Đây được xem là bước đi quan trọng để phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu trong khu vực.
Bảng 17.4 Kế hoạch sử dụng đất trồng lúa của Bộ NN&PTNT giai đoạn 2014–2020
Mùa vụ | Diện tích năm 2013 (ha × 10 3) | Kế hoạch chuyển đổi đất, 2014–2020 (ha × 10 3) | Diện tích năm 2020 (ha × 10 3) | |||
Mùa xuân | Mùa thu | Mùa đông | Tổng cộng | |||
Lúa | 4338 | (160) | (129) | (28) | (316) | 4022 |
Bắp | 40 | 29 | 52 | 1 | 83 | 123 |
Đậu nành | 2 | 17 | 4 | 0 | 21 | 23 |
mè | 29 | 14 | 11 | 0 | 25 | 54 |
Rau và hoa màu | 254 | 50 | 34 | 3 | 87 | 341 |
Thức ăn chăn nuôi | 7 | 17 | 4 | 3 | 24 | 31 |
Lúa và nuôi trồng thủy sản | 174 | 5 | số 8 | 42 | 54 | 228 |
Khác | 53 | 13 | 9 | 0 | 22 | 75 |
Nguồn: Phê duyệt kế hoạch sử dụng đất chuyển đổi hệ thống cây trồng trên đất lúa giai đoạn 2014-2020, Bộ NN & PTNT ngày 31 tháng 7 năm 2014
Để thích nghi với điều kiện địa lý, thổ nhưỡng và nguồn nước khác nhau, nông dân Việt Nam đã phát triển nhiều hệ thống trồng trọt linh hoạt dựa trên cây lúa. Hai mô hình phổ biến đã xuất hiện là (1) một vụ lúa, sau đó là một vụ ngô hoặc khoai lang hoặc rau và (2) hai vụ lúa, sau đó là một vụ ngô hoặc khoai lang hoặc một vụ rau. Từ năm 1995 đến năm 2016, diện tích ngô tăng từ hơn 20.000 ha lên gần 35.000 ha, diện tích trồng khoai lang tăng gấp đôi từ khoảng 10.000 ha lên 20.000 ha (Tổng cục Thống kê 2016). Diện tích các loại rau tăng mạnh từ dưới 20.000 ha năm 2000 lên trên 45.000 ha năm 2011.
Lúa gạo và chăn nuôi
Lợn đóng vai trò thiết yếu trong hệ thống chăn nuôi của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động chăn nuôi lợn quy mô nhỏ phổ biến rộng rãi, với khoảng 70% hộ gia đình sở hữu chuồng trại nuôi vài con lợn. Bên cạnh đó, một số mô hình trang trại quy mô lớn nuôi hàng nghìn con lợn cũng đang phát triển (Huỳnh và cộng sự, 2007). Hoạt động này tạo việc làm cho các thành viên trong gia đình và mang lại nguồn thu nhập chính (Huỳnh và cộng sự 2007). Người chăn nuôi phải đối mặt với rủi ro về thị trường và dịch bệnh, khiến số lượng lợn biến động khi giá cả thay đổi và bùng phát các dịch bệnh như lở mồm long móng hay cúm lợn. Tuy nhiên, tổng số lượng ở Đồng bằng đã tăng từ 2,4 triệu năm 1995 lên 3,8 triệu vào năm 2016.
Nuôi gà vịt lấy thịt và trứng từ lâu đã trở thành truyền thống trong các trang trại ở Đồng bằng sông Cửu Long (Xuan và Matsui, 1998). Nguồn thức ăn cho gà vịt chủ yếu là gạo, thức ăn thừa và các loại động vật thủy sinh địa phương như cá và ốc. Mỗi hộ gia đình thường nuôi số lượng nhỏ gà vịt để tự cung tự cấp, nhưng cũng có hộ nuôi vài trăm con để bán ra thị trường. Một số mô hình trang trại quy mô lớn chuyên canh gà vịt có thể nuôi tới vài nghìn con Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm khu vực đã phải đối mặt với thách thức lớn do dịch cúm gia cầm bùng phát vào giữa những năm 2000 (chú thích cuối trang 5). Dịch bệnh này đã khiến nhiều hộ chăn nuôi nhỏ buộc phải ngừng hoạt động, dẫn đến sự sụt giảm mạnh mẽ số lượng gia cầm ở Đồng bằng. Theo thống kê, từ năm 2003 đến năm 2005, tổng đàn gia cầm tại đây đã giảm từ 51,5 triệu con xuống còn 31,4 triệu con. Mặc dù vậy, kể từ năm 2005, ngành chăn nuôi gia cầm quy mô vừa và lớn đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Đến năm 2016, tổng số lượng gia cầm ở Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt 64,7 triệu con (Tổng cục Thống kê, 2016).
Trước thập niên 1980, trâu và bò đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, được dùng làm sức kéo cho cả cày bừa lẫn vận chuyển (Xuan và Matsui, 1998). Tuy nhiên, kể từ sau thời kỳ đổi mới, phần lớn nông dân đã thay thế trâu bằng máy kéo hai bánh nhập khẩu từ Nhật Bản và Trung Quốc. Sự thay thế này khiến số lượng trâu trong khu vực sụt giảm mạnh: từ 113.000 con năm 1995 xuống 40.000 con năm 2001, và tiếp tục giảm còn 31.000 con vào năm 2016 (Tổng cục Thống kê, 2016). Ngược lại, đàn bò lại tăng nhanh, từ 150.000 con năm 1995 lên 680.000 con năm 2006 và duy trì quanh mức 700.000 con trong những năm sau. Hiện nay, bò chủ yếu được nuôi để cung cấp thịt thương phẩm, phục vụ nhu cầu cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận. Nhiều hộ trồng lúa đã tận dụng chuồng trại có sẵn để nuôi bò thịt, với quy mô trung bình 1–10 con mỗi hộ (Hình 17.6). Nguồn thức ăn cho bò chủ yếu gồm cỏ trồng, rơm rạ và bổ sung thêm một phần nhỏ bánh đậu nành nhập khẩu.

… Còn tiếp …
Theo Nguyen Van Kien, Nguyen Hoang Han & Rob Cramb
Nguồn: https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-981-15-0998-8_17#Sec1
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Đánh Giá Protein Đơn Bào Đến Hiệu Suất Tăng Trưởng, Khả Năng Tiêu Hóa Và Biểu Hiện Gen Miễn Dịch Của Tôm Thẻ Chân Trắng Penaeus vannamei
- An Toàn Sinh Học Thực Hành Tại Trang Trại Tôm
- Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Amoniac, Nitrit Và Sunfua Lên Tôm Thẻ Chân Trắng