Phần 1: Bổ Sung Một Phần Nước Biển Để Cải Thiện Hiệu Suất Tôm Thẻ Chân Trắng Litopenaeus vannamei Trong Các Hệ Thống Biofloc Có Độ Mặn Thấp

Tóm tắt

Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của việc bổ sung nước biển vào ao nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong môi trường nước ngọt có độ mặn thấp (0,5–5 g/L), nhằm cải thiện chất lượng nước và hiệu quả ương dưỡng. Thí nghiệm được tiến hành trong 27 ngày, sử dụng các bể chứa 20.150 lít nước. Nước có độ mặn thấp với hệ thống biofloc được bổ sung nước biển tự nhiên theo các tỷ lệ 0%, 3%, 6%, 10% và 13%. Mỗi bể được thả 1.000 ấu trùng tôm (PL 22 ngày tuổi). Trong quá trình thí nghiệm, các chỉ tiêu chất lượng nước như nhiệt độ, oxy hòa tan, pH, nitơ amoniac, nitrit, nitrat, phốt phát, độ kiềm, độ cứng, độ mặn, độ dẫn điện, chất rắn lơ lửng và chất rắn lắng, cùng nồng độ các ion chính (Cl, Na+, Mg2+, K+) được theo dõi. Đồng thời, các chỉ số sinh trưởng của tôm như trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, năng suất và hệ số chuyển hóa thức ăn cũng được ghi nhận. Kết quả cho thấy, độ mặn, độ dẫn điện và độ cứng tăng theo tỷ lệ nước biển bổ sung. Nồng độ Cl, Na+, Mg2+, K+ và tỷ lệ Na+:K+ cũng tăng đáng kể khi lượng nước biển thêm vào tăng. Hầu hết các chỉ tiêu chất lượng nước khác vẫn nằm trong giới hạn khuyến nghị cho nuôi tôm ở độ mặn thấp, ngoại trừ nitrat ở nghiệm thức 0%. Trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng và năng suất tôm ở nghiệm thức 0% đều thấp hơn đáng kể so với các nghiệm thức có bổ sung nước biển. Trong khi đó, hiệu suất ương dưỡng không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức từ 3% đến 13%. Kết luận, việc bổ sung nước biển 3% là chiến lược hiệu quả để cải thiện tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng nuôi trong hệ thống biofloc ở độ mặn thấp.

Giới thiệu

Nuôi giáp xác, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, với giá trị sản xuất đạt 69 tỷ USD vào năm 2018. Loài tôm này chiếm hơn 50% tổng sản lượng giáp xác (9,4 triệu tấn), tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu trong ngành nuôi trồng thủy sản. Sự tăng trưởng ấn tượng này chủ yếu nhờ vào các đổi mới và công nghệ tiên tiến, giúp đa dạng hóa hệ thống nuôi trồng (FAO, 2020).

Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích nuôi tôm ven biển truyền thống đang gặp nhiều thách thức, từ xung đột tài nguyên đất đến hạn chế nguồn nước. Trong bối cảnh đó, nuôi tôm thẻ chân trắng trong môi trường nội địa được xem là giải pháp thay thế tiềm năng, vừa hiệu quả vừa bền vững.

Giai đoạn ương dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các trại nuôi tôm, mang lại nhiều lợi ích thiết thực: (1) sử dụng các đơn vị sản xuất nhỏ hơn, giúp kiểm soát chặt chẽ các thông số môi trường, tạo điều kiện tối ưu cho tôm phát triển nhanh hơn, rút ngắn thời gian nuôi và nâng cao năng suất; (2) Giai đoạn ương dưỡng cho phép sử dụng thức ăn chuyên biệt dành cho ấu trùng tôm (PL) với hàm lượng protein cao (>40%) để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt của chúng. Việc này giúp tôm phát triển khỏe mạnh, đồng thời hạn chế lãng phí thức ăn và tối ưu hóa hiệu quả kinh tế. (3) Ương vèo giúp kiểm soát số lượng tôm chính xác hơn, theo dõi tình trạng phát triển đồng [đều và hạn chế hiện tượng ăn thịt đồng loại, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. (4) Nhờ sự kiểm soát môi trường và dinh dưỡng tốt hơn, tôm trong giai đoạn ương dưỡng có thể đạt kích thước thương phẩm nhanh hơn so với nuôi truyền thống, giúp rút ngắn thời gian thu hoạch và tăng hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong môi trường nội địa đã được triển khai thành công tại nhiều quốc gia như Brazil, Cuba, Ecuador, Hoa Kỳ, Mexico, Panama và Venezuela (Miranda và cộng sự, 2010; Roy và cộng sự, 2010; Godínez-Siordia và cộng sự, 2011; Jaime-Ceballos và cộng sự, 2012). Trong các mô hình này, tôm thường được nuôi ở mức độ mặn thấp, dao động từ 0,5 đến 5 g/L, sử dụng nguồn nước từ sông, hồ hoặc đập (Nunes và López, 2001; Boyd và cộng sự, 2009; Valenzuela-Madrigal và cộng sự, 2017). Việc chọn độ mặn thấp không chỉ dựa trên sở thích sinh học mà còn liên quan đến yếu tố kinh tế, bởi chi phí mua muối biển nhân tạo hoặc vận chuyển nước biển có thể rất cao, đặc biệt đối với các cơ sở nuôi nội địa. Do đó, để tối ưu hóa lợi nhuận, người nuôi thường lựa chọn mức độ mặn thấp nhất mà vẫn đảm bảo tôm phát triển khỏe mạnh (Ray và Lotz, 2017). Tuy nhiên, việc nuôi ở độ mặn thấp cũng có thể gây tác động tiêu cực đến một số quá trình sinh lý của tôm, chẳng hạn như điều hòa thẩm thấu và phát triển vỏ ngoài, từ đó ảnh hưởng đến năng suất (Li và cộng sự, 2017).

Ngoài nồng độ muối hòa tan, tỷ lệ các ion trong nước cũng đóng vai trò then chốt đối với sinh lý của tôm, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển và sinh sản của chúng (Davis và cộng sự, 2002; Saoud và cộng sự, 2003). Ở các vùng nước ngọt tự nhiên hoặc nước có độ mặn thấp, tỷ lệ ion thường khác biệt so với nước biển, thậm chí có sự khác nhau giữa các nguồn nước cùng độ mặn (Boyd và cộng sự, 2009). Những khác biệt này chủ yếu chịu ảnh hưởng từ yếu tố môi trường địa phương, chẳng hạn như lượng mưa và đặc điểm địa chất, vốn quyết định thành phần ion trong nước (Barbosa và cộng sự, 2012). Ngược lại, nhờ tính ổn định của các ion và lượng khoáng chất từ đất liền so với đại dương khá nhỏ, thành phần ion trong nước biển tương đối ổn định (Niencheski, 2015). Vì vậy, để tối ưu hóa môi trường nuôi tôm thẻ chân trắng, việc nghiên cứu và điều chỉnh tỷ lệ ion trong nước là điều cần thiết, đặc biệt với nuôi tôm nội địa, nơi nguồn nước thường có thành phần ion khác biệt so với nước biển.

Các ion được tìm thấy ở nồng độ cao nhất trong nước tự nhiên, ví dụ: các ion chính là bốn cation (Natri, Na+; Magiê, Mg2+; Canxi, Ca2+; Kali, K+) và ba anion (Clorua, Cl; Sulfate, SO4 2−; Bicarbonate, HCO3 ). Đối với nước biển tự nhiên, dự kiến các cation có nồng độ xấp xỉ sau: Na+, 10.500 mg/ L; Mg2+, 1350 mg/ L; Ca2+, 400 mg/ L và K+, 380 mg/ L; dẫn đến tỷ lệ 28:3:1:1. Đối với nuôi tôm trong đất liền, tỷ lệ này có thể được sử dụng như một chỉ số về điều kiện tối ưu cho hiệu suất tăng trưởng của L. vannamei và khi tỷ lệ này không đạt được một cách tự nhiên thì cần phải điều chỉnh (Boyd, 2018).

Trong số các giải pháp thay thế để điều chỉnh thành phần ion, việc sử dụng muối biển thương mại và nước biển đậm đặc tự nhiên (nước muối) cho thấy tiềm năng được nhân rộng ở cấp độ thương mại (Boyd và Thunjai, 2003). Việc xây dựng công thức hỗn hợp muối riêng có thể là một giải pháp thay thế hiệu quả về mặt kinh tế, nhưng nó đòi hỏi kiến thức chuyên môn cao về hóa học và dinh dưỡng tôm để đảm bảo cân bằng ion phù hợp cho môi trường nuôi. Liên quan đến việc sử dụng nước biển, chiến lược khả thi nhất là tiêm chủng với tỷ lệ thấp. Tuy nhiên, việc pha loãng nước biển cũng có những hạn chế do quá trình trao đổi chất của tôm biển nói chung đòi hỏi nồng độ tối thiểu của một số ion như Mg2+, Ca2+, K+ và HCO3 (McGraw và Scarpa, 2003; Davis và cộng sự, 2004; Roy và cộng sự, 2007; Wudtisin và Boyd, 2011; Boyd và cộng sự, 2016).

Việc ứng dụng các hệ thống thâm canh dựa trên công nghệ biofloc (BFT) mang lại nhiều lợi ích cho ngành nuôi tôm nội địa, bất kể phương pháp điều chỉnh thành phần ion được áp dụng. Hệ thống BFT có khả năng giảm nhu cầu thay nước và cho phép tái sử dụng nước trong một số trường hợp, từ đó giúp tiết kiệm chi phí liên quan đến quá trình nhiễm mặn nhân tạo và/hoặc bảo tồn nước — yếu tố đặc biệt quan trọng tại những vùng khan hiếm tài nguyên (Boyd và cộng sự, 2009). Tuy nhiên, hiện vẫn còn thiếu các nghiên cứu về ảnh hưởng của thành phần ion trong quá trình ương dưỡng tôm theo hệ thống BFT. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của sự mất cân bằng ion đến hiệu suất ương tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong hệ thống oligohaline chủ yếu dựa trên biofloc, sử dụng phương pháp bổ sung nước biển tự nhiên để điều chỉnh tỷ lệ các ion chính.

Chuẩn bị nghiên cứu

Nguồn tôm và sự thích nghi với điều kiện độ mặn thấp

Ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) được lấy từ trại giống thương mại Aquatec ở Canguaretama, Rio Grande do Norte, Brazil. Sau khi vận chuyển về Trạm Nuôi trồng Thủy sản Hàng hải thuộc Đại học Liên bang Rio Grande (EMA – FURG) ở Nam Brazil, ấu trùng được nuôi đến giai đoạn post 10 ngày (PL10). Tiếp theo giai đoạn PL10, tôm được tiến hành ương dưỡng trước trong 10 ngày. Mục đích của giai đoạn ương dưỡng trước là đảm bảo tất cả ấu trùng đều phát triển đầy đủ, giúp chúng có khả năng thích nghi với môi trường nước lợ (oligohaline) sau này.

Một bể polyetylen hình tròn 1000 L ban đầu được đổ đầy nước biển tự nhiên ở mức 30 g/ L trước đó được xử lý bằng 10 mg/ L clo bằng dung dịch natri hypoclorit (NaClO) 12%. Lượng clo bổ sung được loại bỏ bằng cách duy trì sục khí mạnh và liên tục trong suốt 24 giờ. Sau giai đoạn này, PL20 được thả và duy trì ở nhiệt độ 28°C (± 1°C) trong điều kiện sục khí liên tục. Trong quá trình thích nghi, tôm được cho ăn 2 giờ/ lần bằng cách sử dụng khẩu phần ăn thương mại dinh dưỡng dành cho tôm post được duy trì trong điều kiện môi trường thay đổi căng thẳng (Sano® S-PAK, INVE Aquaculture, Bỉ).

Việc giảm độ mặn được thực hiện bằng cách thay dần dần nước biển với nước có độ mặn thấp nhân tạo (0,67 g/ L), việc điều chế và thành phần được mô tả trong phần sau (2.2). Việc xác định tỷ giá trao đổi nước tuân theo các phương pháp được mô tả bởi Van Wyk và cộng sự (1999) và McGraw và cộng sự (2002): Ngày 1, giảm từ 30 xuống 5 g/ L ở mức 46,7% mỗi giờ; Ngày 2, giảm từ 5 xuống 2 g/ L ở mức 0,25 g/ L/ giờ; Ngày 3, giảm từ 2 xuống 0,67 g/ L ở mức 0,13 g/ L/ giờ. Khi kết thúc quá trình thích nghi, tôm post được đếm và chuyển về các lô thí nghiệm.

Chuẩn bị nước lợ

Trong một nghiên cứu trước đây được thực hiện tại EMA-FURG, nồng độ trung bình của các ion chính có trong vùng nước có độ mặn thấp tự nhiên được tìm thấy ở Đông Bắc Brazil (Bảng 1) đã được mô tả. Ở đây, chúng được sử dụng làm mẫu để điều chế nước có độ mặn thấp thử nghiệm. Như được trình bày trong Bảng 2, các muối phân tích được sử dụng làm nguồn của từng ion chính và nồng độ của chúng được trộn lẫn được tính toán theo phương pháp cân bằng hóa học.

Bảng 1. Nồng độ trung bình và tỷ lệ chính của các ion chính trong nước có độ mặn thấp tự nhiên được tìm thấy ở Đông Bắc Brazil được sử dụng làm mô hình để chuẩn bị nước có độ mặn thấp thử nghiệm.
Bảng 1. Nồng độ trung bình và tỷ lệ chính của các ion chính trong nước có độ mặn thấp tự nhiên được tìm thấy ở Đông Bắc Brazil được sử dụng làm mô hình để chuẩn bị nước có độ mặn thấp thử nghiệm.

Trước khi trộn muối, bốn bể 750 L chứa đầy nước ngọt đô thị và nồng độ các ion hòa tan được xác định (độ dẫn điện = 135,9 μS/ cm; và độ mặn = 0,09 g/ L) để chứng thực rằng không khử muối sẽ là cần thiết. Sau đó, các muối phân tích được hòa tan và trộn trong mỗi bể với nồng độ như trong Bảng 2, thu được nước thí nghiệm có độ mặn là 0,67 g/ L và độ kiềm là 150 mg CaCO3/ L.

Bảng 2 Các muối phân tích được sử dụng làm nguồn của từng ion chính và nồng độ của chúng được tính toán theo phương pháp cân bằng hóa học để tạo ra nước lợ
Bảng 2 Các muối phân tích được sử dụng làm nguồn của từng ion chính và nồng độ của chúng được tính toán theo phương pháp cân bằng hóa học để tạo ra nước lợ

Bón phân bằng nước có độ mặn thấp

Sau khi chuẩn bị nước lợ và trước khi bắt đầu thí nghiệm, quy trình được mô tả dưới đây đã được thực hiện để điều chỉnh tỷ lệ C:N và do đó tạo ra sự phát triển và ổn định của cộng đồng vi khuẩn tham gia vào quá trình nitrat hóa, nhằm tránh tỷ lệ chết trong quá trình thí nghiệm do độc tính cao hơn của amoniac (NH3+, NH4 +) và nitrit (NO2−-N) ở độ mặn thấp. Việc bón phân được thực hiện mà không có động vật trong mỗi bể trong số bốn bể 750 L (xem phần 2.2). Là nguồn nitơ, amoni clorua (NH4Cl) được thêm vào ở mức 1,5 mg/ L hai lần một tuần theo sự điều chỉnh của phương pháp được mô tả bởi Gaona và cộng sự (2014). Là nguồn carbon, mật mía lỏng (37,3% carbon) được bổ sung hàng ngày để duy trì tỷ lệ C:N ban đầu là 15:1 (Avnimelech, 1999; Ebeling và cộng sự, 2006). Các bể được giữ trong điều kiện sục khí và sưởi ấm liên tục. Bù đắp lượng nước thất thoát do bay hơi bằng nước ngọt đô thị xử lý clo (phần 2.1). Bổ sung chế phẩm sinh học thương mại Sano® S-PAK (INVE Aquaculture, Bỉ) với liều lượng 0,5 mg/L mỗi tuần. Canxi hydroxit (Ca(OH)2) đã được thêm vào để đạt độ kiềm mục tiêu là 150 mg CaCO3/L (Furtado và cộng sự, 2014). Quy trình này kéo dài 36 ngày, khi nồng độ TAN hoặc NO2−-N không còn được phát hiện trong bất kỳ bể nào, cho thấy cộng đồng vi khuẩn nitrat hóa đã ổn định. Hình 1 mô tả sự thay đổi nồng độ hợp chất nitơ trong suốt quá trình chuẩn bị nước giàu biofloc.

Hình 1. Sự thay đổi nồng độ hợp chất nitơ (mg/ L) trong nước có độ mặn thấp thử nghiệm trong suốt quá trình hình thành biofloc 36 ngày. TAN: tổng cộng nitơ amoni; NO2−-N: nitrit-nitơ; NO3−-N: nitrat-nitơ.
Hình 1. Sự thay đổi nồng độ hợp chất nitơ (mg/ L) trong nước có độ mặn thấp thử nghiệm trong suốt quá trình hình thành biofloc 36 ngày. TAN: tổng cộng nitơ amoni; NO2−-N: nitrit-nitơ; NO3−-N: nitrat-nitơ.

Ngoài nước có độ mặn thấp giàu biofloc (tức là nước thí nghiệm được bón phân), nước biển tự nhiên giàu biofloc (độ mặn 35 g/L) đã được sử dụng trong thí nghiệm như một chiến lược để điều chỉnh thành phần ion, thu được từ một Bể nuôi thương phẩm biofloc L. vannamei. Lượng từng loại nước được trộn để đạt được phương pháp xử lý được mô tả trong phần tiếp theo.

Thiết kế thử nghiệm

Một thử nghiệm kéo dài 27 ngày đã được tiến hành tại EMA – FURG, sử dụng bể tròn 20.150 L chứa đầy hỗn hợp nước có độ mặn thấp chứa biofloc thử nghiệm và nước biển tự nhiên chứa biofloc với tỷ lệ sau: (1) 97%:3% ; (2) 94%:6%; (3) 90%:10%; (4) 87%:13%. Đây là bốn phương pháp xử lý nước được đánh giá trong nghiên cứu này. Ngoài ra, một nhóm đối chứng được nuôi không tiêm chủng (100% nước có độ mặn thấp thử nghiệm và do đó 0% nước biển tự nhiên). Tất cả năm nhóm thử nghiệm đều có bốn lần lặp lại. Tỷ lệ tiêm chủng được tính toán để duy trì sự khác biệt về độ mặn lý thuyết khoảng 1 g/ L giữa các nhóm thử nghiệm, tôn trọng giá trị tối đa (5 g/ L) của phạm vi nước có độ mặn thấp (Hệ thống Venice, 1958). Việc pha trộn nước (nước biển tự nhiên và oligohaline thí nghiệm) và đổ đầy các thiết bị thí nghiệm được tiến hành một ngày trước khi bắt đầu thí nghiệm nhằm đảm bảo nước ổn định và các nhóm nước thí nghiệm là hợp lệ, được đánh giá bởi kiểm tra độ mặn sau 24 giờ bằng máy đo đa đầu dò HACH Multi HQ40d (HACH®, Colorado, USA).

Vào Ngày 0 của thí nghiệm, 150 PL22 (0,057 ± 0,002 g) được thả trong mỗi đơn vị thí nghiệm, tương ứng với mật độ 1000 PL/ m3. Việc sục khí mỗi bể được cung cấp liên tục thông qua ống khí khuếch tán (Aerotube®). Các thiết bị thí nghiệm được lắp đặt trong điều kiện trong nhà, trong đó nhiệt độ nước và phòng (28 ± 1°C) và chu kỳ quang (sáng: tối 12:12) được duy trì tương ứng bằng cách sử dụng lò sưởi điện 250 W, hệ thống điều hòa không khí và đèn huỳnh quang 40 W. Quy trình bổ sung men vi sinh thương mại giống với quy trình được mô tả ở phần 2.3.

Tôm được cho ăn hai lần một ngày (9:00 và 17:00). Trong tuần đầu tiên, khẩu phần thương mại 40% CP được xây dựng cho tôm post (40PL, Guabi, Campinas, Brazil) đã được sử dụng, trong khi khẩu phần thương mại 40% CP được xây dựng cho ấu trùng (40 J, Guabi, Campinas, Brazil) đã được đưa ra trong những tuần tiếp theo. Theo nhà sản xuất, cả hai khẩu phần ăn đều được xây dựng để chứa (g/ kg): 140 tro; 12–30 canxi; 14,5 phốt pho; 1,85 natri và 8 kali. Khẩu phần ăn hàng ngày ban đầu được dựa trên bảng cho ăn do Jory và cộng sự đề xuất (2001). Khẩu phần sau đó được điều chỉnh hàng tuần dựa trên mức tiêu thụ thức ăn được quan sát bằng cách sử dụng các khay được lắp đặt trong tất cả các bể và kết quả lấy mẫu tôm.

Chất lượng nước

Nhiệt độ nước và mức độ bão hòa oxy được theo dõi hai lần mỗi ngày bằng máy đo đa đầu dò WTW Multi 3410 (WTW GmbH, Weilheim, Đức), trong khi độ pH được đo với cùng tần số bằng máy đo pH FEP20 để bàn (Mettler Toledo, Ohio, Hoa Kỳ) . Nồng độ TAN và NO2−-N được đo hàng ngày theo các phương pháp được mô tả lần lượt bởi UNESCO (1983) và Aminot và Chaussepied (1983). Tổng độ kiềm được đo hai lần một tuần theo APHA (2012). Độ mặn và độ dẫn điện được theo dõi hàng tuần bằng máy đo đa đầu dò HACH Multi HQ40d (HACH®, Colorado, Hoa Kỳ). Nồng độ nitrat (NO3-N) và phốt phát (P-PO43−) (Aminot và Chaussepied, 1983), tổng chất rắn lơ lửng (TSS) (Strickland và Parsons, 1972) và chất rắn lắng được (SS) (Samocha, 2019) được đo mỗi tuần một lần. Tổng độ cứng và nồng độ của các ion chính được đo vào Ngày 0, 14, 27 theo các phương pháp được mô tả bởi APHA (2012). Mật độ biofloc (mg/ ml) được xác định bằng tỷ lệ giữa khối lượng (TSS tính bằng mg/ L) và thể tích (SS tính bằng ml/ L) theo sự điều chỉnh của phương pháp chỉ số thể tích khối bông (FVI) được mô tả bởi De Schryver và cộng sự (2008). Dựa trên mức độ bão hòa oxy, nồng độ oxy hòa tan (mg/ L) theo phương pháp do Benson và Krause (1984) đề xuất.

Canxi hydroxit đã được thêm vào để đạt độ kiềm mục tiêu là 150 mg CaCO3 /L (Furtado và cộng sự, 2014). Một bể lắng tự chế được vận hành không liên tục, hướng tới nồng độ TSS trong nước nuôi dưới 500 mg/L dựa trên các tiêu chí được sử dụng bởi Gaona và cộng sự (2011). Các đơn vị thí nghiệm được duy trì không thay nước trong suốt nghiên cứu. Nước ngọt của thành phố được bổ sung hàng tuần để bù đắp lượng nước thất thoát do bay hơi và hoạt động của bể lắng. Vì cộng đồng vi khuẩn nitrat hóa đã ổn định trước khi bắt đầu thí nghiệm theo quy trình được mô tả trước đây trong phần 2.3 nên không cần bổ sung mật đường trong thời gian thử nghiệm.

Hiệu suất tăng trưởng

Việc lấy mẫu tôm được thực hiện hàng tuần. Ở mỗi lần lấy mẫu, 10% tổng số tôm thả được chọn ngẫu nhiên và cân chính xác đến 0,001 g (UX420H, Marte Científica, São Paulo, Brazil). Vào cuối thí nghiệm, hiệu suất chăn nuôi của L. vannamei được đánh giá bằng trọng lượng cuối cùng (g), tỷ lệ sống (%), tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR, %/ ngày), tốc độ tăng trưởng hàng tuần (WGR, g/ tuần), năng suất (kg/ m3), hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), được tính theo các phương trình sau:

Tỷ lệ sống (%) = (số tôm cuối cùng/số tôm ban đầu)*100

SGR (%/ngày ) = [(ln (trọng lượng cơ thể cuối cùng) – ln (trọng lượng cơ thể ban đầu)/ngày thí nghiệm)] *100

WGR (g/ tuần) = (cân nặng cuối cùng – trọng lượng ban đầu)/số tuần

Năng suất (kg/ m3) = tăng sinh khối (kg)/thể tích bể (L)

FCR = thức ăn cung cấp (g)/tăng sinh khối (g)

Phân tích thống kê

Độ chính xác của việc xác định ion được kiểm tra chéo thông qua tính toán sai số cân bằng, được định nghĩa là chênh lệch trung bình (%) giữa nồng độ điện tích ion (cân bằng ion) và được tính như sau (Custodio và Llamas, 1983):

Lỗi (%) = (|Σcat – Σan| / Σcat + Σan) x 200.

trong đó Σcat và Σan lần lượt là tổng nồng độ cation và anion (meq/ L). Các mẫu vượt quá mức chênh lệch 15% không được sử dụng cho các phân tích sau (Boyd, 2002).

Trước khi phân tích để so sánh các nghiệm thức nhằm tìm ra những khác biệt đáng kể, dữ liệu về tỷ lệ phần trăm đã được chuyển đổi arcsine (Zar, 2010), nhưng chỉ trình bày các giá trị chưa được chuyển đổi. Ngoài ra, các giả định thống kê về tính chuẩn tắc và tính đồng nhất được đánh giá bằng các thử nghiệm của ShapiroWilk và Leveneˈs. Trong trường hợp các giả định không được xác nhận, phân tích Kruskal-Wallis phi tham số sẽ được thực hiện. Trong trường hợp ngược lại, phân tích phương sai một chiều (ANOVA) được sử dụng để xác định sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Khi tìm thấy sự khác biệt đáng kể, phân tích ANOVA được theo sau bởi phân tích so sánh Tukey post-hoc. Tất cả các phân tích thống kê được thực hiện ở mức ý nghĩa p < 0,05 bằng phần mềm Past (phiên bản 3.25).

…Còn tiếp…

Theo Plácido Soares de Mouraa, Wilson Wasielesky Jra, Fabiane da Paz Serraa, André Braga, Luís Poersch

Nguồn: https://www.academia.edu/110312740/Partial_seawater_inclusion_to_improve_Litopenaeus_vannamei_performance_in_low_salinity_biofloc_systems

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital

Xem thêm:

 

You cannot copy content of this page