Các chủng Probiotic được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản

TÓM TẮT

Nuôi trồng thủy sản là ngành nông nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển nhanh nhất trên thế giới nhưng vẫn bị hạn chế bởi một số yếu tố. Bệnh truyền nhiễm là yếu tố chính gây hạn chế cho sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản. Bài viết này xem xét việc ứng dụng và hiệu quả của probiotic trong nuôi trồng thủy sản nhằm ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm và ảnh hưởng của chúng đến hệ miễn dịch của cá. Thông tin được thu thập từ các nguồn thứ cấp khác nhau như tạp chí, báo cáo, bài báo, phương tiện điện tử và được sắp xếp theo trình tự thời gian. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu liên quan đến probiotic được chiết xuất từ nhiều loài vi khuẩn khác nhau bao gồm Bacillus sp., Lactobacillus sp., Carnobacteria sp., Enterococcus sp. và nấm men Saccharomyces cerevisiae có sẵn trên thị trường để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Probiotic đã trở nên phổ biến trong nuôi trồng thủy sản như một giải pháp thay thế kháng sinh trong việc ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm ở cá vì chúng thân thiện với môi trường. Ngoài ra, bài đánh giá này cũng cho thấy probiotic có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng trưởng, khả năng sử dụng thức ăn và hiệu suất miễn dịch ở cá có vây, tôm và cua trong nuôi trồng thủy sản. Probiotic có thể ngăn cản sự xâm nhập của các mầm bệnh có hại và cải thiện chất lượng nước thông qua việc phân hủy các thức ăn thừa, nitrat và các vật liệu hữu cơ khác.

Các từ viết tắt:

SGR: Tốc độ tăng trưởng cụ thể;

FCR: Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn;

PER: Tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein;

WSSV: Virus hội chứng đốm trắng;

IgM: Globulin miễn dịch M;

APS: Astragalus Polysaccharide (trích xuất từ gốc của cây Hoàng Kỳ);

NASS: Cục Thống kê Nông nghiệp Quốc gia;

USDA: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ;

FISH: Kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ.

GIỚI THIỆU

Nuôi trồng thủy sản là ngành nông nghiệp sản xuất thực phẩm phát triển nhanh nhất và tiềm năng nhất, đóng góp gần một nửa sản lượng cá toàn cầu. Nuôi trồng thủy sản còn mang lại cơ hội việc làm và đóng góp to lớn cho an ninh lương thực của con người và phát triển kinh tế xã hội ở nhiều quốc gia (FAO, 2008). Việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững đang đối mặt với nhiều thách thức như phòng ngừa dịch bệnh, nâng cao sức đề kháng với mầm bệnh, tăng hiệu suất tăng trưởng và điều hòa miễn dịch. Bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa chính đối với ngành nuôi trồng thủy sản, có thể dẫn đến thiệt hại nặng về kinh tế, gây tỷ lệ chết cao (Assefa và Abunna, 2018). Gần 90% sản lượng bị thiệt hại là do dịch bệnh xuất hiện trong ngành nuôi cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) vào năm 2009 (NASS, 2010). Công cụ chủ yếu để phòng chống dịch bệnh trong nuôi cá, tôm, cua cho đến nay vẫn là kháng sinh; nhưng việc điều trị các bệnh truyền nhiễm bằng kháng sinh đã được chứng minh là không bền vững và không hiệu quả, vì mầm bệnh có thể phát triển khả năng kháng kháng sinh (Ayisi và cộng sự, 2017). Vấn đề này đòi hỏi phải có giải pháp thay thế kháng sinh để kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản. Việc sử dụng probiotic kết hợp với prebiotic hoặc sử dụng riêng lẻ đã được báo cáo là giải pháp thay thế kháng sinh phù hợp vì kiểm soát sinh học là phương pháp tốt nhất chống lại bệnh truyền nhiễm (Maqsood và cộng sự, 2011).

Các loài vật chủ không thể sử dụng nhiều chất dinh dưỡng quan trọng, nhưng hệ vi sinh vật đường ruột có thể chuyển hóa và chuyển đổi chúng thành sản phẩm cuối cùng như axit béo chuỗi ngắn. Vì vậy, việc điều chỉnh hệ vi sinh vật đường ruột của sinh vật thủy sinh theo hướng tích cực là rất quan trọng và có thể được thực hiện bằng cách sử dụng probiotic (Wang và cộng sự, 2008; Merrifield và cộng sự, 2010; Dimitroglou và cộng sự, 2011; Gioacchini và cộng sự, 2014; Ringo và cộng sự, 2014). Probiotic là các vi sinh vật có lợi bao gồm vi khuẩn và nấm men mang lại lợi ích sức khỏe cho vật chủ khi được sử dụng với liều lượng thích hợp (WHO, 2002). Probiotic là nguyên liệu thực phẩm có hoạt tính sinh học, không tiêu hóa và có thể lên men, mang lại lợi ích cho vật chủ thông qua việc kích thích sự phát triển và hoạt động của các vi sinh vật bên trong vật chủ (Ayisi, 2017). Probiotic có lợi cho vật chủ, chúng có khả năng tồn tại trong đường tiêu hóa nhờ khả năng chịu axit và muối mật (Cruz và cộng sự, 2012). Việc sử dụng probiotic đã ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm về mặt khoa học và thương mại, và hiện nay việc sử dụng probiotic khá phổ biến trong các loại thực phẩm tăng cường sức khỏe cho đến các chất bổ sung chữa bệnh, phòng ngừa và tăng trưởng (Nayak, 2010; Kiron, 2012; Ringo và cộng sự, 2014). Người ta đã báo cáo rằng, probiotic có tác dụng có lợi đối với động vật thủy sản như tăng khả năng kháng bệnh và khả năng cung cấp chất dinh dưỡng (Merrifield và cộng sự, 2010; Carnevali và cộng sự, 2014; Ringo và cộng sự, 2014). Đánh giá này được thực hiện nhằm điều tra việc ứng dụng và hiệu quả của probiotic và các sản phẩm của chúng trong nuôi trồng thủy sản nhằm kiểm soát các bệnh truyền nhiễm ở cá và tăng cường đáp ứng miễn dịch với các mầm bệnh gây hại. Bài viết này cũng xem xét các sản phẩm probiotic hiện có trên thị trường để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm ở cá.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ

Probiotic là các vi sinh vật ở trạng thái còn sống hoặc đã chết, hoặc một phần của vi sinh vật hoặc chiết xuất của vi sinh vật mang lại lợi ích sức khỏe cho vật chủ khi được sử dụng với liều lượng thích hợp và nâng cao khả năng kháng bệnh, hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và khả năng chống stress (Hoseinifar và cộng sự, 2014). Nguyên nhân sử dụng probiotic trong nuôi trồng thủy sản không rõ ràng từ quan điểm lịch sử và tài liệu hiện có, nhưng có bằng chứng về việc sử dụng probiotic trong nuôi cá có vây và động vật không xương sống ở Trung Quốc và Ấn Độ. Có báo cáo cho rằng, từ “probiotic” lần đầu tiên được Lilly và Stillwell sử dụng vào năm 1965 để mô tả các vi khuẩn tăng cường sức khỏe, sau đó được Fuller định nghĩa là bổ sung vi sinh vật sống vào thức ăn có khả năng cải thiện sự cân bằng vi sinh vật của vật chủ vào năm 1989 (Balcazar và cộng sự, 2006; Austin và cộng sự, 2012).

Nguồn probiotic

Westerdahl và cộng sự (1991) thích sử dụng các vi sinh vật có nguồn gốc từ vật chủ làm probiotic để chống lại mầm bệnh. Vi sinh vật có thể được lấy từ ruột của cá khỏe mạnh, nước trong môi trường nuôi, trầm tích trong bể nuôi, các động vật khác và các thực phẩm lên men khác. Hiệu quả của probiotic thương mại chưa rõ ràng trong các tài liệu, nhưng probiotic có nguồn gốc từ vật chủ được cho là có lợi cho hệ vi sinh vật chủ phân lập từ đường tiêu hóa của thủy sản (Hai, 2015). Những vi sinh vật có lợi này sống bên trong vật chủ khỏe mạnh và chúng được cho là một phần thiết yếu của hệ thống phòng thủ tự nhiên (Gomez và cộng sự, 2013). Các vi sinh vật trên cạn cũng được chứng minh là không có hiệu quả làm probiotic cho sinh vật biển (Vazquez và cộng sự, 2003). Lactococcus lactis, Lactobacillus brevis, Lactobacillus collinoides, Lactobacillus coryniformis, Enterococcus faecalis, Citrobacter freundi, Lactobacillus farciminis, Lysinibacillus fusiformis, Pseudomonas fluorescens, Bacillus circlens, Enterococcus durans, Streptococcus sp. I, Streptococcus sp. II, Leuconostoc sp., Enterococcus faecium và nhiều probiotic tiềm năng khác đã được phân lập từ Oreochromis niloticus (Reda và cộng sự, 2017). Bacillus licheniformis, Enterococcus faecalis, Bacillus pumilus, Enterococcus faecium, Lactobacillus lactis, Bacillus subtilis được phân lập từ cá hồi vân và Mugil cephalus có tiềm năng cao được sử dụng làm probiotic trong nuôi trồng thủy sản (Hai, 2015).

Chiến lược quản lý

Hoạt tính điều hòa miễn dịch của probiotic phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như nguồn gốc, liều lượng, phương pháp sử dụng và thời gian bổ sung (Hai, 2015). Phương pháp quản lý thích hợp là yếu tố chính để sử dụng probiotic trong nuôi trồng thủy sản.

  • Quản lý chế độ ăn: Việc kết hợp trực tiếp probiotic vào thức ăn viên là một trong những cách sử dụng probiotic quan trọng nhất và được áp dụng rộng rãi. Probiotic được áp dụng trực tiếp dưới dạng bào tử với thức ăn viên (Assefa và Abunna, 2018). Trong quá trình bổ sung probiotic, khả năng sống của bào tử cần được kiểm tra liên tục để xác nhận khả năng miễn dịch ở cá được tăng cường. Chúng có thể được thêm vào dưới dạng đông khô và trộn với lipid làm lớp phủ trên thức ăn (De và cộng sự, 2014).
  • Đóng gói dạng vi nang: Chiến lược quản lý được sử dụng rộng rãi là đóng gói bào tử. Việc đóng gói giúp cải thiện giá trị dinh dưỡng và đưa vi khuẩn có lợi đến vật chủ một cách hiệu quả (Assefa và Abunna, 2018). Trong quá trình này, các chủng vi khuẩn có lợi ở mật độ cao được bao bọc trong chất nền dạng keo sử dụng alginate, chitosan, carboxymethylcellulose hoặc pectin để bảo vệ các vi sinh vật về mặt vật lý và hóa học (Hermosillo và cộng sự, 2012). Trong nuôi trồng thủy sản, việc bao bọc Shewanella putrefaciens trong canxi alginate đã chứng tỏ sự sống của các tế bào probitoic khi đi qua đường tiêu hóa của cá bơn Solea senegalensis. Việc bao bọc probiotic trong chất nền alginate giúp bảo vệ vi khuẩn có lợi khỏi các enzyme tiêu hóa và môi trường có pH thấp (Kumar và cộng sự, 2016).
  • Cố định probiotic: Cố định probiotic là một kỹ thuật mới, được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp sữa và dược phẩm và đã được báo cáo một kỹ thuật có ích (Assefa và Abunna, 2018). Đây là một công nghệ mới áp dụng cho các loài Lactobacillus. Ngoài ra, quá trình cố định tế bào mang lại nhiều lợi ích trong việc sản xuất sinh khối và chất chuyển hóa so với các hệ thống tế bào tự do (De và cộng sự, 2014).

Ứng dụng probiotic

Probiotic có thể được ứng dụng bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ như chỉ sử dụng các chủng probiotic, hoặc sử dụng probiotic với các sản phẩm thực vật hay sử dụng probiotic với chiết xuất nấm men. Sử dụng probiotic với sản phẩm thực vật là phương pháp kiểm soát bệnh đầy hứa hẹn có thể cải thiện hiệu suất tăng trưởng, các thông số huyết học, phản ứng miễn dịch và khả năng kháng bệnh của cá (Ringo và Song, 2015). Tuy nhiên, có rất ít thông tin về tác dụng của hỗn hợp probiotic thực vật trong nuôi trồng thủy sản (Ringoand Song, 2015).

Chỉ sử dụng probiotic: Carnobacteria sp. đã thành công trong việc giảm bệnh ở cá hồi do Vibrio ordalii, Aeromonas salmonicidaYersinia ruckeri gây ra (Robertson và cộng sự, 2000); Vibrio anguillarum cải thiện khả năng kháng bệnh của cá tuyết; probiotic đa chủng mang lại tác dụng có lợi đối với sức khỏe vật chủ. Hỗn hợp Bacillus subtilisLactobacillus acidophilus mang lại khả năng bảo vệ cao hơn, giúp chống lại các mầm bệnh gây hại ở cá rô phi như Aeromonas hydrophila, Pseudomonas fluorescens và các loại khác (Sharifuzzamanand Austin, 2017).

Probiotic kết hợp với chiết xuất thực vật: Việc bổ sung Lactobacillus sakei và chiết xuất thực vật Scutellaria baicalensis (Harikrishnan và cộng sự, 2011), Lactobacillus plantarum với polysaccharide và Lactobacillus plantarum với thạch Helianthus tuberosus (Van Doan và cộng sự, 2014; Ringo và Song, 2015), Bacillus sp. và hỗn hợp chiết xuất thảo dược (Yu và cộng sự, 2009), hỗn hợp Pediococcus parvulus, Candida parapsilosis (nấm men) và Echinacea purpureaUncaria tomentosa (Peraza-Gomez và cộng sự, 2014) và nhiều loại khác đã được báo cáo là làm cải thiện tốc độ tăng trưởng, FCR , PER, SGR và khả năng kháng bệnh ở cá và động vật có vỏ.

Probiotic kết hợp với nấm men: Vi khuẩn probiotic Bacillus licheniformis kết hợp với chiết xuất nấm men (Hassaanvà cộng sự, 2014), Shewanella putrefaciens với β-glucans (Guzman-Villanueva và cộng sự, 2014); Vibrio alginolyticus với β-glucans (Fan và cộng sự, 2010; Ringo và Song, 2015) và sự kết hợp của chúng làm đã giúp cải thiện phản ứng miễn dịch, SGR, FCR, PER, tỷ lệ sống, nồng độ IgM huyết thanh, hoạt tính kháng protease và hoạt động thực bào ở cá rô phi sông Nile , tôm và cá tráp. Việc tiêm Bacillus subtilis với APS và Tuckahoe giúp tăng SGR, phản ứng miễn dịch và khả năng kháng bệnh đối với Vibrio splendidus (Sharifuzzaman và Austin, 2017)

Cơ chế hoạt động

Cơ chế hoạt động của probiotic dường như chưa được hiểu rõ. Probiotic có thể loại bỏ mầm bệnh gây hại sau khi xâm nhập vào đường tiêu hóa của vật chủ, vi sinh vật có lợi tạo ra các phân tử ức chế, cạnh tranh với mầm bệnh về vị trí bám dính, chất dinh dưỡng hoặc năng lượng và can thiệp vào hoạt động của mầm bệnh (Balcazar và cộng sự, 2006; Irianto và Austin, 2002). Một số loại probiotic còn có khả năng ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh trên bề mặt ruột. Việc bổ sung Lactobacillus lactis, L. plantarumL. fermentum làm giảm sự xuất hiện của Aeromonas salmonicida, A. hydrophila, Vibrio anguillarumYersinia ruckeri trong chất nhầy ruột của cá hồi vân (Balcazar và cộng sự, 2006). Hỗn hợp Bacillus subtilisBacillus licheniformis cải thiện đáng kể FCR, SGR và PER ở cá hồi vân (Merrifield và cộng sự, 2010). Cơ chế hoạt động của vi khuẩn được sử dụng làm probiotic, mặc dù chưa được làm rõ hoàn toàn nhưng được mô tả như sau (Balcázar và cộng sự, 2006; Ng và cộng sự, 2008; Walker 2008; Sherman và cộng sự, 2009):

  • Cạnh tranh vị trí gắn kết: Còn được gọi là “loại trừ cạnh tranh”, trong đó vi khuẩn probiotic liên kết với các vị trí gắn kết ở niêm mạc ruột, tạo thành hàng rào vật lý, ngăn chặn sự kết nối của vi khuẩn gây bệnh.
  • Sản xuất các chất kháng khuẩn: Vi khuẩn probiotic tổng hợp các hợp chất như hydro peroxide và vi khuẩn, có tác dụng kháng khuẩn đối với vi khuẩn gây bệnh. Chúng cũng tạo ra axit hữu cơ làm giảm pH của môi trường trong đường tiêu hóa, ngăn chặn sự phát triển của các mầm bệnh khác nhau và thúc đẩy sự phát triển của một số loài Lactobacillus.
  • Cạnh tranh về chất dinh dưỡng: Probiotic tiêu diệt các mầm bệnh có hại cho quá trình hấp thụ dinh dưỡng, từ đó làm giảm lượng chất dinh dưỡng. Việc thiếu các chất dinh dưỡng sẵn có mà vi khuẩn gây bệnh có thể sử dụng là yếu tố giúp hạn chế khả năng duy trì của chúng.
  • Kích thích hệ thống miễn dịch: Một số vi khuẩn probiotic có liên quan trực tiếp đến việc kích thích phản ứng miễn dịch, bằng cách tăng sản xuất kháng thể, kích hoạt đại thực bào, tăng sinh tế bào T và sản xuất interferon.

Hình 1: Cơ chế hoạt động của probiotic ở cá và các sinh vật khác (Bermudez-Brito và cộng sự, 2012)

Tác dụng của probiotic

Probiotic được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản với mục đích tăng hiệu suất tăng trưởng của loài nuôi, tăng cảm giác thèm ăn và khả năng tiêu hóa của cá. Probiotic có khả năng kiểm soát dịch bệnh, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, đóng vai trò là nguồn dinh dưỡng, hỗ trợ tiêu hóa thức ăn và cải thiện phản ứng miễn dịch. Probiotic là phương pháp đầy hứa hẹn để ức chế độc lực của mầm bệnh và kiểm soát bệnh ở vật nuôi thủy sản. Probiotic có khả năng giải phóng các chất hóa học có tác dụng diệt khuẩn hoặc kìm hãm khuẩn (De và cộng sự, 2014). Probiotic có tác dụng hữu ích và quan trọng đối với hệ tiêu hóa của cá. Probiotic có thể tổng hợp các enzyme như amylase, protease và lipase. Khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng tăng lên khi probiotic được bổ sung vào thức ăn với liều lượng thích hợp (Merrifield và cộng sự, 2010). Hàm lượng probiotic cao trong ao nuôi cá có thể giảm thiểu sự tích tụ các chất hòa tan và dạng hạt trong giai đoạn sinh trưởng và cân bằng việc sản xuất thực vật phù du (Ibrahem, 2015). Đã có báo cáo rằng probiotic làm tăng khả năng chống chịu stress ở cá ngựa vằn nuôi thâm canh (Daniorerio) (Cruz và cộng sự, 2012). Nhiều vi sinh vật trong nước đã được chứng minh là có khả năng tăng cường khả năng kháng bệnh ở các loài cá và động vật có vỏ giúp chống lại nhiều mầm bệnh (Newaj-Fyzul và cộng sự, 2015). Sử dụng probiotic trong thời gian dài cải thiện phản ứng miễn dịch của vật chủ, tình trạng sức khỏe, khả năng kháng bệnh và tốc độ tăng trưởng. Swain và cộng sự (2009) đã cho tôm sú Penaeus monodon ăn 4 loại probiotic và kết luận rằng các chủng lợi khuẩn này ức chế hiệu quả mầm bệnh, tăng tỷ lệ sống của tôm đối với Vibrio harveyi và tăng khả năng kháng bệnh đối với Vibrio parahaemolyticus. Ông đã chứng minh rằng Streptococcus phocaeEnterococcus faecium phân lập từ tôm nước lợ có tiềm năng cao trong việc kiểm soát bệnh do Vibrio gây ra trong nuôi tôm (Swain và cộng sự, 2009). Chủng LAB Lactobacillus plantarum MRO3.12 cho thấy hiệu quả cao nhất trong việc giảm vi khuẩn gây bệnh Vibrio harveyi. Khẩu phần bổ sung có chứa Lactobacillus plantarum cho thấy sự cải thiện đáng kể về tốc độ tăng trưởng tương đối (RGR), tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei (Kongnum và Hongpattarakere, 2012). Nimrat và cộng sự (2012) đã kiểm tra hiệu quả của hỗn hợp probiotic Bacillus và phương thức tác động đến sự tăng trưởng, số lượng vi khuẩn và chất lượng nước ở tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei và phát hiện ra rằng hậu ấu trùng tôm được xử lý bằng probiotic có biểu hiện tăng trưởng cao hơn, tỷ lệ sống cao hơn, tăng số lượng vi khuẩn có lợi và nâng cao chất lượng nước (Nimrat và cộng sự,2012).

Probiotic thương mại có sẵn

Có rất nhiều loại probiotic đã được phân lập và đánh giá để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm cho vật nuôi thủy sản. Một số trong số các loại này đã được phân lập từ các loài thủy sinh bao gồm cá và tôm, ruột của chúng, môi trường nuôi, động vật trên cạn và các nguồn khác.

Bảng 1: Các sản phẩm probiotic thương mại có sẵn trên thị trường được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản (Balcazar và cộng sự, 2006; Merrifield và cộng sự, 2010; Nayak, 2010; Cruz và cộng sự, 2012; Ringø và cộng sự, 2014; Hai,2015; Ibrahem, 2015).

Hạn chế và triển vọng

Các sản phẩm probiotic kích hoạt cơ chế bảo vệ và khả năng miễn dịch bẩm sinh của vật chủ, ảnh hưởng đến độc lực của mầm bệnh và kích thích phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng, tuy nhiên, những khía cạnh này ít được nghiên cứu ở cá tầm (Askarian và cộng sự, 2011; Ringo và Song, 2015). Cơ chế hoạt động có thể có của probiotic phần lớn phụ thuộc vào sự tương tác giữa vi khuẩn có lợi và vật chủ (Sharifuzzaman và Austin, 2017). Tuy nhiên, vẫn còn những điều chưa chắc chắn về probiotic khi sử dụng trong thời gian dài (Newaj-Fyzul và Austin, 2015). Cho đến nay, các nghiên cứu về probiotic kết hợp với các sản phẩm thực vật và β-glucans vẫn chưa nghiên cứu sâu về ảnh hưởng của chúng đến chức năng hàng rào biểu mô, tính toàn vẹn và cấu trúc ruột và khả năng chống lại vi khuẩn gây bệnh (Sissener và cộng sự, 2009). Việc kết hợp thành công probiotic với các sản phẩm thực vật và β-glucans là một vấn đề phức tạp và có rất ít thông tin từ các nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (Gatlin và cộng sự, 2007). Tác động của chủng probiotic hoặc các sản phẩm probiotic đối với nuôi cá rô phi (Oreochromis niloticus) vẫn chưa được hiểu rõ. Ngoài ra, các vi sinh vật probiotic thương mại có sẵn trên thị trường không mang lại tác dụng có lợi cho cá rô phi sông Nile (Hai, 2015). Việc sử dụng kết hợp probiotic và các sản phẩm thực vật vẫn còn ở giai đoạn đầu, vì vậy lĩnh vực này cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Một khía cạnh khác cũng cần được chú ý là việc bổ sung chế độ ăn, kết hợp vi khuẩn probiotic và các chất thay thế có nguồn gốc thực vật trong thức ăn thủy sản, vì sự phát triển và thâm canh liên tục của nuôi trồng thủy sản đã làm gia tăng việc đưa các chất thay thế có nguồn gốc thực vật vào khẩu phần ăn (Hansen và cộng sự, 2015). Các nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề này cùng với việc đánh giá tác động môi trường của probiotic là những yêu cầu quan trọng để đạt được kết quả mong muốn trong nuôi trồng thủy sản. Rõ ràng, probiotic có vai trò trong chiến lược kiểm soát bệnh ở cá và động vật có vỏ và việc sử dụng chúng không chỉ giúp thay thế một số hóa chất ức chế hiện đang được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản mà còn thúc đẩy an toàn thực phẩm và sức khỏe (Sharifuzzaman và Austin, 2017).

KẾT LUẬN

Việc sử dụng probiotic trong môi trường nước vẫn là một thực hành gây tranh cãi do thiếu bằng chứng xác thực hoặc các minh chứng thực tế về việc sử dụng thành công probiotic và cơ chế hoạt động của chúng. Probiotic là giải pháp thay thế kháng sinh và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản, mang lại lợi ích tốt hơn cho sức khỏe, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và sản xuất các sản phẩm cá hữu cơ an toàn, đáp ứng nhu cầu protein cho thế hệ tương lai. Nghiên cứu sâu hơn về probiotic nên tập trung vào các công cụ công nghệ sinh học phân tử để hiểu rõ hơn về các phương thức hoạt động vì phương thức hoạt động chính xác của probiotic đối với cá vẫn chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Sử dụng hóa mô miễn dịch, biểu hiện gen và proteomics có thể được sử dụng để khám phá cơ chế hoạt động của probiotic. Các nghiên cứu về sự tương tác giữa probiotic và tỷ lệ carbohydrate-lipid có thể làm giảm áp lực lên dinh dưỡng thức ăn trong ngành nuôi trồng thủy sản thâm canh. Kỹ thuật FISH là một công cụ tiềm năng để mô tả đặc điểm hoạt động của probioticc và hiệu quả của chúng trong việc kiểm soát vi khuẩn gây bệnh trong việc phát hiện mầm bệnh.

Theo Shoaibe Hossain Talukder Shefat

Nguồn: https://www.academia.edu/37841054/Probiotic_Strains_Used_in_Aquaculture

Biên dịch: Huyền Thoại – Bình Minh Capital

Xem thêm:

You cannot copy content of this page