Lúa gạo và nuôi trồng thủy sản
Bốn hệ thống canh tác lúa gạo chính ở đồng bằng sông Cửu Long kết hợp việc đánh bắt và/hoặc nuôi trồng các loài thủy sản (Xuan và Matsui 1998):
- Lúa-đánh bắt cá tự nhiên
- Lúa-thủy sản (cá nước ngọt, ví dụ: Pangasius spp.)
- Lúa-thủy sản (tôm nước ngọt, ví dụ Macrobrachium rosenbergii)
- Lúa-thủy sản (tôm nước lợ, ví dụ Penaeus monodon)
Đánh bắt cá tự nhiên từ lâu đã được thực hiện ở các vùng lúa cấy ở đồng bằng, sản lượng khoảng 190.000 tấn/năm. Nông dân đào ao, mương trên ruộng lúa để tạo nơi trú ẩn cho cá trong mùa trồng lúa. Sau khi thu hoạch lúa, cá di chuyển đến các ao nơi nông dân có thể thu hoạch để tiêu thụ trong gia đình. Hệ thống này có thể mang lại năng suất 2-3 tấn lúa/ha và 150-200 kg cá/ha (Xuan và Matsui 1998). Mức tiêu thụ trung bình hàng năm các sản phẩm cá tươi ước tính là 21 kg bình quân đầu người vào năm 1995 (Rothuis 1998). Thu hoạch cá tự nhiên để bán mang lại thêm thu nhập cho hầu hết các hộ gia đình. Hệ thống này chiếm ưu thế trước khi lúa HYV được phổ biến rộng rãi ở vùng đồng bằng (Xuan và Matsui 1998), làm giảm đáng kể việc đánh bắt cá tự nhiên. Ví dụ, tổng sản lượng cá đánh bắt ở vùng thượng nguồn đồng bằng giảm 1/3 từ năm 1995 đến năm 2016.
Trong khi việc đánh bắt cá tự nhiên truyền thống đã giảm thì việc nuôi cá lại tăng lên rõ rệt (Hình 17.7). Điều này liên quan đến việc nuôi cá trong đăng quầng hoặc lồng nổi và ngày càng tăng trong các ao dọc sông và kênh chính sử dụng thức ăn viên. Cá da trơn địa phương (Pangasius spp.) là loài được nuôi chính. Ngành công nghiệp cá da trơn bắt đầu vào cuối những năm 1990 tại các tỉnh An Giang và Đồng Tháp ở vùng thượng nguồn đồng bằng, và trong vòng một thập kỷ có sự tham gia của 800.000 nông dân quản lý 6.000 ha ao nuôi để sản xuất 1,5 triệu tấn, phần lớn xuất khẩu sang Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU). Trong thập kỷ qua đã xảy ra những tranh chấp thương mại với Mỹ và những lo ngại về chất lượng ở EU, gây ra những biến động về nhu cầu. Tuy nhiên, diện tích nuôi cá nước ngọt vẫn tiếp tục tăng. Ví dụ, ở tỉnh An Giang, diện tích đã tăng từ 1465 ha năm 1995 lên 1690 ha vào năm 2016 (Hình 17.8).


Hệ thống kết hợp lúa với tôm nước ngọt chủ yếu được thực hiện ở các vùng trũng của ĐBSCL. Vào những năm 1990, nông dân ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, trong thời kỳ suy thoái xuyên sông Hậu, đã bắt đầu trồng trọt hai vụ với các giống HYV ngắn ngày và trung bình tích hợp với tôm hoặc cá nước ngọt như cá lóc và cá rô đồng (Xuan và Matsui 1998). Mô hình nuôi tôm – lúa sau đó được du nhập vào tỉnh An Giang, khu vực Tứ giác Long Xuyên vào mùa lũ năm 2000. Xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn là địa phương đầu tiên triển khai mô hình này với diện tích vài ha tôm và thu được hiệu quả kinh tế cao nhờ năng suất tốt và giá bán sản phẩm cao. Năm 2002, nông dân huyện Châu Phú tiếp tục áp dụng mô hình này, nuôi tôm trên diện tích 282 ha trong mùa lũ và luân canh với lúa HYV vào mùa khô (Hình 17.9). Theo nghiên cứu của Nguyễn (2014), lợi nhuận ròng từ một vụ tôm – lúa vào năm 2006 đạt 2.263 USD, trong đó 85% đến từ hoạt động nuôi tôm. Con số này cao hơn nhiều so với lợi nhuận ròng từ mô hình trồng lúa hai vụ và ba vụ truyền thống ở An Giang (Bảng 17.5). Do đó, chính quyền tỉnh đã xây dựng chính sách thúc đẩy “sinh kế dựa vào lũ” thông qua hệ thống lúa-tôm (Ủy ban Nhân dân An Giang 2006). Nông dân Đồng Tháp ở vùng Đồng Tháp Mười cũng theo nông dân An Giang, bắt đầu nuôi tôm vào mùa lũ năm 2004. Năm 2006 cả nước có 146 ha ao nuôi, sản lượng 230 tấn. Con số này tăng lên 700 ha sản xuất 1200 tấn vào năm 2010.

Bảng 17.5 Hiệu quả kinh tế từ nghề trồng lúa-tôm nước ngọt ở An Giang, 2006
| Tham số | Các đơn vị | Cơm | Con tôm | Tổng cộng |
| Năng suất | Tấn/ha | 6,76 | ||
| Giá bán | đồng/kg × 10 3 | 2.269 | ||
| Tổng lợi ích | đồng/ha × 10 3 | 15.338 | 102.540 | 117.878 |
| Tổng chi phí | đồng/ha × 10 3 | 7437 | 57.790 | 65.117 |
| Lợi ích ròng | đồng/ha × 10 3 | 7901 | 44.750 | 52.761 |
| Lợi ích ròng | USD/ha | 339 | 1920 | 2263 |
Nguồn: Nguyen, VK ( 2014)
Lưu ý: 1 USD = 23.000 VNĐ
Diện tích và sản lượng tôm nước ngọt tăng rõ rệt đến khoảng năm 2008. Tuy nhiên, sản lượng đã giảm đáng kể trong thập kỷ qua do ô nhiễm hóa chất từ các cánh đồng lúa HYV lân cận, mực nước lũ giảm (đỉnh lũ năm 2015 là thấp nhất trong 100 năm qua) và giá cả thị trường không ổn định. Diện tích ao nuôi tôm ở An Giang đạt đỉnh 650 ha vào năm 2007 và giảm xuống còn 214 ha vào năm 2016, trong khi năng suất bình quân giảm mạnh từ trên 2 tấn/ha năm 2012 xuống dưới 1 tấn/ha năm 2016 (Hình 17.8). bên trên). Với sự sụt giảm về diện tích và sản lượng, tổng sản lượng ở An Giang đã giảm từ 1.334 tấn năm 2008 xuống chỉ còn 194 tấn vào năm 2016. Xu hướng tương tự cũng xảy ra ở cả hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp.
Lúa kết hợp với tôm nước lợ đã được áp dụng ở 5 tỉnh ven biển ngay từ những năm 1930 (Nguyen, HC 1994). Năm 1984, có khoảng 5000 ha nuôi tôm-lúa (Xuan và Matsui 1998). Vào thời điểm này, năng suất tôm trung bình đạt 640 kg/ha và năng suất lúa dao động từ 3,5 đến 4,0 tấn/ha (Xuan và Matsui 1998). Năm 2000, tổng diện tích lúa-tôm là 71.000 ha, phân bố trên 5 tỉnh ven biển: Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Con số này đã tăng lên 153.000 ha vào năm 2014 (USAID 2016). Các hệ thống tôm-lúa bán thâm canh này bao gồm một vụ lúa mùa mưa và một hoặc hai vụ tôm sú hoặc tôm thẻ chân trắng (USAID 2016). Hệ thống này rất phổ biến ở các tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang, Bến Tre và Trà Vinh. Tổng sản lượng tôm nước lợ là 65.000 tấn với năng suất dao động từ 300 đến 500 kg/ha (USAID 2016). Nghiên cứu của Preston và Clayton (2003) cho thấy thu nhập của nông dân đã được cải thiện đáng kể sau khi áp dụng hệ thống canh tác lúa – tôm.
Hệ thống nuôi tôm – lúa, mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng vẫn tiềm ẩn một số vấn đề kỹ thuật có thể ảnh hưởng đến tính bền vững của mô hình này. Một trong những vấn đề chính là việc sử dụng chất dinh dưỡng trong hệ thống tôm – lúa thường kém hiệu quả hơn so với các ao nuôi tôm chuyên dụng. Điều này dẫn đến tỷ lệ sống thấp và sản lượng tôm thu hoạch không cao (Dien và cộng sự, 2018). Ngoài ra, các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước và độ mặn cao vào mùa khô, cùng với hàm lượng oxy hòa tan thấp, cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và sự phát triển của tôm, góp phần làm giảm tỷ lệ sống và sản lượng (Leigh và cộng sự, 2017). Hơn nữa, độ mặn cao trong hệ thống tôm – lúa cũng tác động bất lợi đến năng suất lúa, ảnh hưởng đến tổng sản lượng thu hoạch của cả hệ thống. Mặc dù hệ thống nuôi tôm-lúa có hiệu quả kinh tế và môi trường nhưng nông dân có xu hướng chuyển sang hệ thống nuôi tôm thâm canh (Preston và Clayton 2003).
Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức mới và ngày càng gia tăng đối với hệ thống nuôi tôm – lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Một trong những tác động tiêu biểu là tình trạng xâm nhập mặn diễn ra sớm hơn, thường vào tháng 11, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa và đồng thời góp phần làm gia tăng độ mặn trong đất theo thời gian (Preston và Clayton, 2003; ACIAR, 2016). Hơn nữa, tần suất và mức độ nghiêm trọng của hạn hán cũng gia tăng do biến đổi khí hậu. Đợt hạn hán lịch sử năm 2015 là minh chứng rõ ràng cho những tác động tàn khốc của biến đổi khí hậu, gây thiệt hại nặng nề cho các ngành sản xuất nông nghiệp như lúa, rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, trâu bò và ao cá nhỏ. Các tỉnh ven biển chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc biệt là đối với sản xuất lúa gạo, trái cây và nuôi trồng thủy sản.
Kết luận
Trong ba thập kỷ qua, hệ thống canh tác lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có những thay đổi sâu rộng, nhờ sự kết hợp giữa sáng kiến của nông dân và chính sách hỗ trợ từ chính phủ. Sau năm 1975, trước yêu cầu cấp bách về an ninh lương thực, nhà nước tập trung đầu tư vào các công trình thủy lợi, kiểm soát nước và tưới tiêu, đồng thời khuyến khích thâm canh thông qua công nghệ cách mạng xanh. Nhờ đó, mô hình canh tác hai vụ và ba vụ nhanh chóng được áp dụng rộng rãi. Diện tích lúa của vùng từ khoảng 2,0 triệu ha sau chiến tranh đã tăng lên 3,2 triệu ha vào năm 1995 và đạt 4,3 triệu ha năm 2016. Năng suất cũng tăng đáng kể: từ 2 tấn/ha năm 1975 lên 3,8 tấn/ha năm 1995 và 5,3 tấn/ha năm 2016, nhờ quản lý nước tốt hơn, sử dụng giống lúa cao sản (HYV) và tăng lượng phân bón. Tổng sản lượng lúa gạo chỉ khoảng 4 triệu tấn năm 1975, nhưng đã tăng gấp ba lần lên 12,8 triệu tấn năm 1995 và đạt 24,2 triệu tấn vào năm 2016, nhờ cả mở rộng diện tích và nâng cao năng suất. Từ một quốc gia nhập khẩu gạo trong thập niên 1970–1980, Việt Nam đã vươn lên xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo vào năm 1989 sau giai đoạn cải cách thị trường và thâm canh mạnh mẽ. Đến năm 2016, xuất khẩu đạt 4,5 triệu tấn, trị giá 2 tỷ USD, trong đó 90% sản lượng đến từ Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ sau năm 2000, mô hình canh tác lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều thay đổi đáng kể, khi những tác động tiêu cực đến sinh kế nông dân và môi trường ngày càng bộc lộ rõ. Việc tập trung sản xuất gạo chất lượng thấp phục vụ xuất khẩu không mang lại lợi nhuận tương xứng, nhất là trong bối cảnh nhu cầu trong nước và quốc tế đang chuyển sang gạo chất lượng cao và chế độ ăn đa dạng hơn. Sự chuyên môn hóa quá mức vào lúa gạo cũng làm giảm tính đa dạng trong khẩu phần của nhiều hộ nông thôn. Bên cạnh đó, việc lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu đã gây ô nhiễm đất, nguồn nước, đồng thời làm suy giảm các nguồn thực phẩm tự nhiên. Các chính sách “quản lý tổng thể” về thủy văn tại khu vực cũng ảnh hưởng lớn đến dòng chảy, quá trình bồi lắng, hệ sinh thái thủy sinh và phương thức sử dụng đất. Đặc biệt, đồng bằng hiện ở trong tình trạng dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu: mực nước biển dâng, hạn hán – lũ lụt gia tăng và xâm nhập mặn đã tác động đến gần một nửa diện tích tự nhiên của vùng.
Để giải quyết những vấn đề phát sinh từ mô hình thâm canh lúa gạo, chính phủ đã điều chỉnh chính sách và từng bước nới lỏng các quy định về sử dụng đất trồng lúa. Trước đây, các hạn chế này nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực và duy trì nguồn thu từ xuất khẩu. Nhờ sự thay đổi đó, trong hai thập kỷ qua, hệ thống canh tác dựa trên lúa gạo đã trở nên đa dạng hơn: đất lúa được chuyển sang trồng các loại cây ngoài lúa, phát triển vườn cây ăn quả, cũng như nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước lợ. Vào mùa khô, nhiều diện tích được dùng để trồng cây làm vườn có hệ thống tưới tiêu, trong khi các vườn cây ăn trái năng suất cao và sinh lợi ngày càng phổ biến tại vùng đồng bằng ngập lũ. Trong bối cảnh nguồn cá khai thác nội địa truyền thống suy giảm, nuôi cá nước ngọt trong ao – đặc biệt là cá da trơn bản địa – đã phát triển mạnh, trở thành ngành xuất khẩu chủ lực ở vùng thượng nguồn đồng bằng. Tuy nhiên, nuôi tôm nước ngọt sau giai đoạn tăng trưởng nhanh từ năm 1990 lại đang chững lại. Tại khu liên hợp ven biển và bán đảo Cà Mau, nghề nuôi tôm nước lợ vốn có lịch sử lâu đời và nhiều thành công, nay cũng phải đối mặt với thách thức lớn từ dịch bệnh, biến động thị trường và tác động của biến đổi khí hậu.
Một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất về sự điều chỉnh chính sách là Nghị quyết tháng 11/2017 với mục tiêu hỗ trợ các chiến lược phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long. Nghị quyết này tập trung vào bốn định hướng:
- Phát triển lúa gạo chất lượng cao.
- Giảm diện tích trồng lúa.
- Đa dạng hóa hệ thống canh tác.
- Thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp hữu cơ.
Trọng tâm không còn nằm ở sản lượng, mà là nâng cao chất lượng hạt gạo và đa dạng hóa mô hình sản xuất dựa trên cây lúa, để tận dụng thế mạnh từng vùng sinh thái nông nghiệp. Ngay cả lúa nổi – một giống truyền thống – cũng được khuyến khích phát triển tại những khu vực ngập sâu còn lại. Việc giảm diện tích trồng lúa nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng hóa chất trong hệ sinh thái ruộng, đồng thời mở ra cơ hội cho các loại cây trồng, vật nuôi và thủy sản khác vốn đang có nhu cầu ngày càng tăng tại các đô thị Việt Nam. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy các hệ thống canh tác tổng hợp theo hướng sinh thái giúp xây dựng nền nông nghiệp bền vững, sinh kế nông thôn ổn định và có khả năng thích ứng tốt hơn trước biến động thị trường lẫn khí hậu.
Theo Nguyen Van Kien, Nguyen Hoang Han & Rob Cramb
Nguồn: https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-981-15-0998-8_17#Sec1
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Tác dụng của taurine trong khẩu phần ăn đối với sự trưởng thành và tình trạng sức khỏe của tôm thẻ chân trắng bố mẹ
- Tác dụng của mannan oligosaccharide trong khẩu phần ăn đối với tôm thẻ chân trắng
- Thông Số Chất Lượng Nước Thường Bị Bỏ Qua: pH
English