Trong bốn thập kỷ qua, hệ thống canh tác lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã trải qua nhiều thay đổi. Sau năm 1975, chính phủ tập trung đầu tư mạnh vào thủy lợi và thâm canh, áp dụng rộng rãi mô hình hai vụ và ba vụ lúa. Nhờ đó, diện tích trồng lúa đã tăng từ khoảng 2 triệu ha vào cuối thập niên 1970 lên 4,3 triệu ha vào năm 2016. Năng suất lúa mùa mưa cũng cải thiện rõ rệt, từ 2 tấn/ha (1975) lên 5,3 tấn/ha (2016). Tổng sản lượng lúa vì thế tăng từ 4 triệu tấn lên 24,2 triệu tấn trong cùng giai đoạn, giúp Việt Nam từ một quốc gia nhập khẩu gạo trở thành nước xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo (trị giá 2 tỷ USD) vào năm 2016, chủ yếu nhờ Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, quá trình thâm canh cũng để lại nhiều hệ lụy. Nông dân buộc phải sản xuất lúa chất lượng thấp để phục vụ xuất khẩu, nhưng lợi nhuận không cao. Việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tràn lan gây ô nhiễm đất, nguồn nước và làm suy giảm nguồn thực phẩm tự nhiên. Đồng thời, việc quản lý tổng thể hệ thống thủy văn đã tác động tiêu cực đến dòng chảy, bồi lắng, hệ sinh thái thủy sinh và việc sử dụng đất. Để ứng phó, chính phủ đã dần nới lỏng các ràng buộc về đất lúa, khuyến khích chuyển đổi sang hệ thống canh tác đa dạng hơn, bao gồm trồng cây ngoài lúa, phát triển vườn cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước lợ. Chính sách hiện nay tập trung vào nâng cao chất lượng lúa gạo, giảm diện tích trồng lúa, đẩy mạnh đa dạng hóa hệ thống nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và hữu cơ.
Giới thiệu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm khoảng 15% diện tích hạ lưu sông Mê Kông và 27% diện tích đất lúa, nhưng lại đóng góp tới 48% sản lượng lúa toàn lưu vực và 60% lượng gạo xuất khẩu (Hình 17.1). Chính vì vậy, nơi đây được xem như “vựa lúa tràn đầy” của khu vực. Phần lớn diện tích đồng bằng thường xuyên chịu ngập lũ tự nhiên vào mùa mưa, nhưng nhờ hệ thống thủy lợi quy mô lớn, nông dân có thể thâm canh lúa quanh năm. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đang đặt ra thách thức lớn đối với sản xuất lúa gạo. Chương này tập trung phân tích xu hướng phát triển hệ thống canh tác lúa gạo tại ĐBSCL, đồng thời giới thiệu các nghiên cứu thực địa ở An Giang và Hậu Giang (trình bày trong chương kế tiếp). Các nghiên cứu này không chỉ đánh giá chuỗi giá trị gạo nội địa, từ nhà cung cấp đầu vào đến người tiêu dùng (Chương 18), mà còn mở rộng sang thương mại gạo xuyên biên giới với Campuchia (Chương 19). Riêng Chương 20 đi sâu vào thương mại gạo nếp giữa tỉnh Savannakhet (miền Trung Lào) và tỉnh Quảng Trị (duyên hải Bắc Trung Bộ Việt Nam), bổ sung cho phân tích về thị trường gạo tại Savannakhet ở Chương 9.

Địa lý đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là một đơn vị địa lý có hình dạng tam giác, với diện tích gần 50.000 km², chủ yếu được bồi đắp bởi phù sa và trầm tích biển màu mỡ. Vùng này kéo dài từ Phnom Penh (Campuchia) qua miền Nam Việt Nam đến Biển Đông và Vịnh Thái Lan. Trong đó, khoảng 78% diện tích (tương đương 39.000 km²) nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu này, thuật ngữ “Đồng bằng sông Cửu Long” được dùng để chỉ phần thuộc Việt Nam. Hệ thống kênh rạch nơi đây hình thành mạnh mẽ trong vòng hai thế kỷ qua, phục vụ giao thông, tưới tiêu và thoát nước. Đặc biệt, quá trình phát triển diễn ra rõ rệt dưới thời Pháp thuộc (1910–1930) và sau năm 1975. Đến nay, toàn vùng có hơn 10.000 km kênh rạch và 20.000 km đê điều, góp phần làm thay đổi sâu sắc chế độ thủy văn cũng như hệ sinh thái nông nghiệp. Hiện tại, khoảng 90% diện tích đất trồng trọt đã được đảm bảo tưới tiêu.
Đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu tương đồng với toàn vùng Hạ lưu sông Mê Kông, đặc trưng bởi kiểu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, với lượng mưa trung bình mỗi tháng thường vượt 200 mm; trong khi đó, mùa khô diễn ra từ tháng 12 đến tháng 4. Sự biến đổi nhiệt độ cùng với tính chu kỳ của lượng mưa đã hình thành nên ba mùa sản xuất lúa chính: (1) mùa mưa, khí hậu mát hơn, từ tháng 7 đến tháng 10 (vụ chính hay “vụ mùa thu”); (2) mùa khô, thời tiết mát hơn, từ tháng 11 đến tháng 2 (“vụ đông”); và (3) mùa nóng, đầu mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng 6 (“vụ xuân”).

Lũ lụt trong mùa mưa là hạn chế chủ yếu ở vùng thượng nguồn đồng bằng, với độ sâu lũ hơn 4 mét, trong khi xâm nhập mặn vào mùa khô là yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sử dụng đất ở vùng hạ lưu đồng bằng, hạn chế sản xuất lúa gạo chỉ một vụ mỗi năm. Đất phù sa màu mỡ chiếm khoảng 30% diện tích, dọc theo bờ sông Mê Kông và sông Hậu, nhưng đất phèn xuất hiện trên 40% diện tích, phân bố ở các vùng trũng rộng, chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn. Đồng bằng bao gồm sáu vùng sinh thái nông nghiệp riêng biệt với các tiềm năng khác nhau cho các hệ thống canh tác lúa gạo (Nguyen, DC và cộng sự 2007; Biggs 2015; Biggs và cộng sự 2009; Hình 17.1):
- Vùng đồng bằng ngập lũ là vùng nước ngọt dọc sông Mê Kông và sông Hậu (Hậu Giang), có diện tích khoảng 900.000 ha. Hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng bởi thủy triều ở vùng trung lưu. Vùng này có đất phù sa màu mỡ, nông dân thâm canh lúa hai hoặc ba vụ mỗi năm, nhiều hộ gai đình đã đa dạng hóa sang vườn cây ăn trái, rau màu và nuôi trồng lúa-cá kết hợp.
- Các vùng trũng lớn nằm cách xa các sông chính. Đồng bằng Tháp Mười ở phía Bắc có diện tích khoảng 500.000 ha, là vùng thấp nhất của đồng bằng với độ sâu trung bình 0,5 mét dưới mực nước biển. Vùng này ngập lụt vào mùa mưa và có đất phèn. Nông dân thường trồng lúa nước sâu ở vùng này nhưng các biện pháp kiểm soát lũ hiện nay cho phép thâm canh lúa và lúa kết hợp với nuôi trồng thủy sản nước ngọt.
- Tương tự, vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích 400.000 ha, ngập lụt vào mùa mưa và đất phèn. Đây cũng là khu vực trồng lúa nước sâu truyền thống, nhưng kể từ năm 2000, đầu tư vào kiểm soát lũ lụt và thủy lợi đã cho phép sản xuất lúa thâm canh cũng như nuôi trồng thủy sản lúa-cá.
- Vùng trũng xuyên sông Hậu nằm ở phía Tây sông Hậu và có diện tích khoảng 600.000 ha. Vùng này còn có đất phèn nhưng không bị ảnh hưởng nặng nề bởi lũ lụt, xâm nhập mặn, tạo điều kiện tốt cho thâm canh lúa và các loại cây trồng khác.
- Bán đảo Cà Mau có diện tích khoảng 800.000 ha ở phần cực nam của Đồng bằng nơi Đồng bằng đang phát triển tích cực nhờ sự lắng đọng trầm tích. Vùng này bị xâm nhập mặn vào mùa khô, hạn chế sản xuất lúa gạo chỉ trong một vụ mùa mưa. Phần lớn diện tích này được phát triển để nuôi tôm.
- Khu phức hợp ven biển bao gồm khoảng 600.000 ha đồng bằng ven biển và các dải cát, phần lớn trong số đó bị xâm nhập mặn, mặc dù các tuyến đê ven biển đã làm thay đổi chế độ thủy văn. Cùng với bán đảo Cà Mau, đây là vùng trọng điểm phát triển nuôi tôm nước lợ.
Khoảng 17,5 triệu người sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 1/5 dân số Việt Nam. Cư dân đa dạng với các dân tộc Kinh (90%), Khmer (6%), Hoa (2%) và Chăm (2%). Tốc độ tăng dân số thấp, chỉ 0,3–0,5% do hiện tượng di cư (CGIAR 2016). Lúa gạo đóng vai trò then chốt trong đời sống của người dân, là nguồn sinh kế chính cho hàng triệu hộ nông dân nhỏ, cung cấp lương thực chính và thu nhập chủ yếu cho người dân khu vực. Năm 2016, diện tích trồng lúa cả nước đạt 3,8 triệu ha, sản lượng 40 triệu tấn lúa chưa bóc vỏ. Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 50% sản lượng này. Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trị giá 2 tỷ USD trong năm 2016, 90% xuất phát từ Đồng. Diện tích trồng và năng suất lúa đã tăng lên trong 20–30 năm qua do hệ thống thủy lợi và kiểm soát lũ lụt được cải thiện và do nông dân áp dụng các giống năng suất cao (HYV), tăng cường sử dụng phân bón và cơ giới hóa quy mô nhỏ. Ở nhiều nơi ở vùng đồng bằng, nông dân hiện nay trồng ba vụ lúa mỗi năm.
Tuy nhiên, nông dân trồng lúa thường có thu nhập bấp bênh do ảnh hưởng của giá cả thị trường và biến đổi khí hậu. Việc sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc trừ sâu và khai thác nước ngầm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước và đất đai. Đa dạng hóa hệ thống canh tác hiện được cả nông dân và chính phủ coi là một cách để giải quyết những thách thức này. Năm 2000, chính phủ ban hành chính sách khuyến khích nông dân đa dạng hóa sản xuất. Nông dân tích cực áp dụng trồng xen canh các loại cây khác như ngô, rau, dưa hấu vào mùa khô trên đất lúa cũng như kết hợp trồng lúa với nuôi trồng thủy sản. Cây ăn quả cũng được trồng rộng rãi trên các vùng cao được bảo vệ khỏi lũ lụt (Nguyen, DC và cộng sự 2007). Chương này sẽ đánh giá hiệu quả của việc thâm canh và tăng trưởng sản xuất lúa gạo cũng như sự phát triển của các hệ thống canh tác lúa đa dạng hơn.
Hồ sơ hộ gia đình nông thôn
Dựa trên khảo sát hộ gia đình giữa những năm 2000, Bảng 17.1 vẽ nên bức tranh tổng thể về sinh kế nông thôn ở các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau của Đồng bằng sông Cửu Long (Nguyen, DC và cộng sự 2007). Một số đặc điểm chính của hộ gia đình trung bình ở mỗi vùng được trình bày trong Bảng 17.1. Quy mô trang trại trung bình nhỏ, dao động từ 1,4 ha (vùng đồng bằng ngập nước) đến 2,5 ha (vùng ven biển). Hộ gia đình trung bình có 5 thành viên, trong đó 2-4 thành viên trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp cao nhất ở vùng đồng bằng ngập nước (20%), thấp nhất ở các vùng khác (<10%). Tỷ lệ tham gia công việc phi nông nghiệp cao, dao động từ 45% (Đồng Tháp Mười) đến hơn 70% (Tứ giác Long Xuyên). Trình độ học vấn của chủ hộ tương đương nhau, đa số hoàn thành THCS Hầu hết chủ hộ là nam giới, nhưng 16% hộ gia đình vùng đồng bằng ngập lũ do phụ nữ làm chủ hộ. Việc sở hữu các thiết bị chính khác nhau giữa các vùng tùy thuộc vào sự thay đổi trong sinh kế. Máy bơm thiết yếu cho hầu hết các hộ (75-90%), ngoại trừ bán đảo Cà Mau (ít phụ thuộc vào thủy lợi). Tương tự như vậy, thuyền cần thiết ở những vùng lũ lụt (vùng trũng sâu và Khu liên hợp ven biển). Máy phun phổ biến ở vùng trồng lúa (60-70%), ít phổ biến ở vùng nuôi tôm ven biển. Tỷ lệ sử dụng tín dụng dao động từ 40% (vùng đồng bằng ngập lũ) đến 90% (bán đảo Cà Mau).

Nguồn: Nguyen, DC và cộng sự. ( 2007)
Hình 17.3 mô tả cách thức sử dụng đất khác nhau của các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đất lúa là loại hình sử dụng đất phổ biến nhất, chiếm 1,0 – 1,5 ha/hộ, tập trung ở vùng đồng bằng ngập lũ và các vùng trũng xung quanh. Vườn cây ăn trái cũng đóng vai trò quan trọng, với diện tích trung bình 0,2 – 0,3 ha/hộ, phổ biến ở các khu vực này. Tuy nhiên, trang trại nuôi tôm và cá là hình thức sử dụng đất chủ yếu ở Khu liên hợp ven biển và bán đảo Cà Mau, với diện tích trung bình là 2,0–2,4 ha.

Bảng 17.2 cho thấy mối liên hệ giữa mô hình sử dụng đất và thu nhập của các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nông dân ở vùng đồng bằng ngập nước phù sa và các vùng trũng lân cận (Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên) thu được 80–90% thu nhập trang trại của họ từ lúa và hoa màu, kiếm được 1300–1500 USD vào năm 2005. Ngược lại, nông dân ở Khu liên hợp ven biển kiếm được 85–90% thu nhập của trang trại từ tôm và cá, với nông dân ven biển trung bình kiếm được 1.700 USD từ nguồn này. Thu nhập phi nông nghiệp đóng vaitrof quan trọng hơn đối với các hộ gia đình ở vùng đồng bằng ngập lũ, cho thấy sự đa dạng hóa sinh kế lớn hơn ở khu vực đông dân cư và dễ tiếp cận hơn này. Nhìn chung, những nông dân này và những người ở Khu liên hợp ven biển có thu nhập bình quân hộ gia đình cao nhất (2100–2300 USD) và bình quân đầu người (420–470 USD). Người dân ở bán đảo Cà Mau có mức thu nhập thấp nhất, với thu nhập bình quân bằng khoảng một nửa so với những vùng khác.

Nguồn: Nguyen, D.C. và cộng sự. (2007)
… Còn tiếp …
Theo Nguyen Van Kien, Nguyen Hoang Han & Rob Cramb
Nguồn: https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-981-15-0998-8_17#Sec1
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital
Xem tiếp:
- Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Sinh Vật Nguyên Sinh Trong Khẩu Phần Ăn Cho Tôm Thẻ Chân Trắng
- Mối Liên Hệ Và Xác Định Các Yếu Tố Động Lực Chất Lượng Nước Trong Ao Nuôi Tôm Thẻ Chân Trắng Trong Hệ Thống Nuôi Trồng Thủy Sản Xanh Sinh Thái Nhiệt Đới Thân Thiện Với Môi Trường
- Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Amoniac, Nitrit Và Sunfua Lên Tôm Thẻ Chân Trắng