Tóm tắt
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản của Indonesia. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng và thiếu kiểm soát của hoạt động nuôi tôm đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường ven biển, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn. Mô hình nuôi tôm thâm canh đã dẫn đến hàng loạt vấn đề môi trường cần được khắc phục. Hệ thống nuôi trồng thủy sản tích hợp với rừng ngập mặn (IMAS) được xem là một giải pháp tiềm năng nhằm bảo vệ rừng ngập mặn và hướng đến sự phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu này đánh giá vai trò của IMAS trong việc nâng cao chất lượng nước trong ao nuôi tôm. Kết quả chỉ ra sự khác biệt rõ rệt về nhiệt độ, nồng độ oxy hòa tan (DO) và hàm lượng nitrit giữa các điểm lấy mẫu. Phân tích thành phần chính (PCA) cho thấy tổng chất hữu cơ (TOM), nitrat, nitrit và amoniac là những yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng nước. Chỉ số ô nhiễm cao nhất được ghi nhận tại các ao nuôi tôm siêu thâm canh, ở mức “ô nhiễm vừa phải”, trong khi các khu vực khác, bao gồm cả rừng ngập mặn, chỉ bị “ô nhiễm nhẹ”. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ sinh thái rừng ngập mặn có thể góp phần cải thiện chất lượng nước thải từ hoạt động nuôi trồng. Tuy nhiên, chất lượng nước vẫn chưa đạt mức “tốt”, do đó cần xây dựng hệ thống xử lý nước thải bổ trợ cho mô hình IMAS nhằm đảm bảo môi trường nuôi trồng thủy sản bền vững hơn.
Giới thiệu
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là một trong những sản phẩm thủy sản chủ lực của Indonesia, chỉ đứng sau dầu khí về giá trị xuất khẩu ngoại tệ [Sitompul et al., 2018]. Nhu cầu tiêu thụ và giá trị thương mại cao trên thị trường quốc tế đã thúc đẩy ngành nuôi tôm phát triển mạnh mẽ [Ahmed et al., 2018]. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích kinh tế đáng kể, hoạt động này cũng gây ra nhiều lo ngại do những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường [Hamilton, 2013]. Sự phát triển ồ ạt của ngành nuôi tôm tại các quốc gia đang phát triển như Indonesia, Việt Nam, Bangladesh và Brazil đã góp phần làm suy thoái nghiêm trọng các hệ sinh thái rừng ngập mặn [Ahmed et al., 2018]. Việc mất đi các hệ sinh thái này kéo theo hàng loạt hệ lụy nghiêm trọng cả về sinh thái và kinh tế như mất cân bằng khí hậu, xói mòn bờ biển, giảm khả năng lọc và hấp thụ chất thải, mất nơi cư trú của nhiều loài sinh vật, cũng như mất nguồn nguyên liệu phục vụ y học và du lịch.
Nuôi tôm theo mô hình thâm canh được áp dụng nhằm nâng cao năng suất, tuy nhiên phương pháp này lại làm gia tăng lượng chất thải hữu cơ, xuất phát từ thức ăn dư thừa và chất bài tiết của tôm [Barraza-Guardado et al., 2013]. Trong khi đó, công nghệ siêu thâm canh còn đẩy mật độ thả nuôi lên mức rất cao, từ 300 con/m² đến 1.250 con/m² [Wasielesky et al., 2006; Suwoyo et al., 2015]. Mật độ nuôi dày đặc như vậy trong các hệ thống siêu thâm canh dẫn đến sự tích tụ lượng lớn chất thải, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của tôm cũng như chất lượng nước trong khu vực nuôi [Suwoyo et al., 2015; Musa et al., 2020]. Những chất thải này có thể gây hiện tượng phú dưỡng, làm giảm oxy hòa tan trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát triển [Peng et al., 2009a]. Sự suy giảm chất lượng nước trong ao nuôi còn làm biến đổi cấu trúc quần xã thực vật phù du, thúc đẩy hiện tượng nở hoa của tảo độc (HAB) [Davidson et al., 2014; Mahmudi et al., 2020b], khiến tôm dễ bị nhiễm bệnh hơn [Qiao et al., 2020]. Dù công nghệ nuôi thâm canh và siêu thâm canh được triển khai nhằm tăng năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm, song cần chú trọng đến việc hạn chế những tác động tiêu cực đối với môi trường và cộng đồng [Rurangwa et al., 2017].
Rừng ngập mặn từ lâu đã được coi là một hệ thống xử lý sinh học tự nhiên hiệu quả, giúp loại bỏ và giữ lại các chất dinh dưỡng như nitơ (N) và phốt pho (P) [Mendoza-Carranza et al., 2010]. Việc tích hợp rừng ngập mặn vào hệ thống nuôi trồng thủy sản tích hợp (IMAS) được xem là một giải pháp tiềm năng nhằm giải quyết tình trạng suy giảm diện tích rừng ngập mặn và các mô hình nuôi không bền vững [Peng et al., 2009a]. Mô hình IMAS được kỳ vọng sẽ nâng cao khả năng tự làm sạch của ao nuôi, thúc đẩy quá trình phân hủy, chuyển hóa và đồng hóa các chất ô nhiễm, đồng thời giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch bệnh và nâng cao hiệu quả sản xuất. Tại Phòng thí nghiệm Nước lợ và Nước biển, Đại học Brawijaya (Probolinggo), một quy trình độc đáo đã được triển khai trong nuôi tôm thẻ chân trắng, trong đó rừng ngập mặn được sử dụng để xử lý cả nước cấp và nước thải từ hệ thống nuôi [Musa et al., 2021]. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống IMAS đối với chất lượng nước. Trước đó, nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò tích cực của rừng ngập mặn trong việc cải thiện chất lượng nước trong các mô hình nuôi thâm canh [Barraza-Guardado et al., 2013; Ahmed et al., 2018]. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hiệu quả của mô hình IMAS trong điều kiện nuôi siêu thâm canh vẫn còn hạn chế. Với tầm quan trọng kinh tế của mô hình nuôi siêu thâm canh cũng như các rủi ro tiềm ẩn đối với môi trường ven biển, việc nghiên cứu và ứng dụng hệ thống IMAS là hết sức cần thiết. Việc kết hợp mô hình IMAS với nuôi siêu thâm canh được kỳ vọng sẽ góp phần bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái ven biển.
Chuẩn bị nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Nước lợ và Nước biển thuộc Đại học Brawijaya, Indonesia. Phòng thí nghiệm tọa lạc tại bờ biển thuộc Regency Probolinggo (Hình 1a) và bao gồm một ao nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh. Sáu địa điểm lấy mẫu đã được chọn, như được mô tả trong Hình 1b. Vị trí 1 là nước sông gần kênh dẫn vào, được sử dụng làm nguồn nước chính cho ao thâm canh. Vị trí 2 là ao chứa, có chức năng cung cấp nước cho các ao khác và là ao cách ly để phá vỡ chu kỳ dịch bệnh. Vị trí 3 và 4 là ao nuôi siêu thâm canh. Vị trí 5 là ao xử lý chất thải từ hai ao nuôi trồng thủy sản. Cuối cùng, vị trí 6 là khu vực rừng ngập mặn.
Hình 1. Địa điểm nghiên cứu (a) Phòng thí nghiệm nước lợ và nước biển của Đại học Brawijaya, Probolinggo; (b) Địa điểm lấy mẫu
Vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong nghiên cứu này là các mẫu nước được lấy từ sáu địa điểm lấy mẫu được mô tả ở trên. Mỗi mẫu nước được quan sát cả tại chỗ và ngoài hiện trường để đo chất lượng nước. Các thông số chất lượng nước được đo trong nghiên cứu này là nhiệt độ, độ trong suốt, độ pH, oxy hòa tan, độ mặn, nitrat, nitrit, amoniac, phốt phát và tổng chất hữu cơ. Các công cụ được sử dụng cho từng tham số được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Dụng cụ đo thông số chất lượng nước
Phân tích dữ liệu
Phân tích thống kê
Nghiên cứu này sử dụng một số kỹ thuật thống kê, bao gồm phân tích phương sai một chiều (ANOVA), thử nghiệm Tukey và phân tích thành phần chính (PCA) (Lusiana & Mahmudi, 2021) để phân tích sự thay đổi của các thông số chất lượng nước trong khu vực nghiên cứu. Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm R (phiên bản 3.6.1).
Chỉ số ô nhiễm
Chỉ số ô nhiễm là thước đo dùng để xác định tình trạng chất lượng nước dựa trên mức độ ô nhiễm. Chỉ số này có thể được tính toán như sau [Darmanto và Sudarmadji, 2013; Tanjung và cộng sự, 2019]
Tình trạng chất lượng nước được PI phân loại như sau, theo nghị định của Bộ trưởng Bộ Môi trường Indonesia (nghị định số 115, 2003):
0 < IPj < 1: Tốt
1 < IPj < 5: Ô nhiễm nhẹ
5 < IPj < 10: Ô nhiễm vừa phải
IPj > 10: Ô nhiễm nặng
Kết quả và thảo luận
Kết quả đo chất lượng nước
Bảng 2 tóm tắt kết quả phân tích các thông số chất lượng nước tại sáu vị trí lấy mẫu. Nhiệt độ, DO và nồng độ nitrit của các mẫu nước khác nhau đáng kể giữa các vị trí lấy mẫu (p < 0,05, ký hiệu chữ cái không bằng nhau). Mặt khác, độ trong, pH, độ mặn, nitrat, amoniac, orthophosphate và TOM không khác biệt đáng kể giữa các vị trí mẫu (p > 0,05, ký hiệu chữ cái bằng nhau). Nhiệt độ ở Vị trí 5 cao hơn so với các vị trí khác và vượt quá giá trị tối đa cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia. Giá trị pH trung bình thấp hơn 6, không đáp ứng yêu cầu tối thiểu cho mục đích nuôi trồng thủy sản (loại III) theo tiêu chuẩn quốc gia. Tương tự, độ mặn tại tất cả các vị trí lấy mẫu đều thấp hơn giới hạn dưới cho phép của tiêu chuẩn quốc gia đối với loại nước III (27–32 ppt). Trong khi đó, Nồng độ nitrit, amoniac và TOM vượt quá giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia lần lượt là 0,06 mg/L, 0,5 mg/L và 90 mg/L. Nồng độ cao nhất của các hợp chất này được ghi nhận tại Vị trí 3 và 4 (ao nuôi trồng thủy sản siêu thâm canh).
Bảng 2. Kết quả đo chất lượng nước
Phân tích thành phần chính về chất lượng nước
Mười thông số chất lượng nước (nhiệt độ, độ trong suốt, pH, oxy hòa tan, độ mặn, nitrat, amoniac, photphat và tổng chất hữu cơ) được sử dụng làm dữ liệu đầu vào cho PCA. Giá trị riêng lớn hơn 1 được coi là có ý nghĩa. PCA đã xác định bốn thành phần chính giải thích 82,652% tổng sự thay đổi chất lượng nước. Thành phần chính thứ nhất (PC1) có tải trọng cao đối với TOM, nitrat, nitrit và amoniac. Trong khi đó, thành phần chính thứ 2 (thành phần 2) cho kết quả cao về độ trong suốt (0,595), độ mặn (0,731) và độ pH (-0,616). Trọng số của TOM, nitrat, nitrit, amoniac, độ trong suốt, độ mặn và pH cũng lớn hơn so với các thông số khác.
Hình 2. Đồ thị kép phân tích thành phần chính của thông số chất lượng nước
Chỉ số ô nhiễm ao nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh và vùng nước lân cận
Theo kết quả tính toán chỉ số ô nhiễm trên Hình 3, tất cả các điểm lấy mẫu đều có đặc điểm là điều kiện ô nhiễm ở mức độ nhẹ đến trung bình. Vào đầu giai đoạn lấy mẫu đầu tiên, chỉ số ô nhiễm không đổi ở tất cả các địa điểm được phân loại là ‘ô nhiễm nhẹ’ (PI < 5). Tuy nhiên, trong giai đoạn lấy mẫu thứ ba và thứ tư, chỉ số ô nhiễm tại các ao siêu thâm canh đã tăng lên hơn 5 và các ao siêu thâm canh do đó được phân loại là ‘ô nhiễm vừa phải’. Ngược lại, chỉ số ô nhiễm của các địa điểm khác vẫn ổn định trong thời gian nghiên cứu.
Hình 3. Chỉ số ô nhiễm nước ao nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh và vùng nước lân cận
Thảo Luận
Nuôi tôm phát triển mạnh tại vùng ven biển tiềm ẩn nguy cơ phá hủy hệ sinh thái đầm lầy ngập mặn (Hamilton, 2013) và làm giảm hiệu quả hoạt động nuôi trồng thủy sản về lâu dài (Sampantamit et al., 2020). Để bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn, đảm bảo lợi ích kinh tế và duy trì sản xuất tôm bền vững, cần áp dụng mô hình lồng ghép rừng ngập mặn vào quy trình nuôi trồng thủy sản (Peng et al., 2009b). Nghiên cứu trước đây cho thấy rừng ngập mặn đóng vai trò như bẫy chất thải, giúp cải thiện chất lượng nước thải và ngăn ngừa ô nhiễm (Yang et al., 2008; Mahmood et al., 2013). Tại Phòng thí nghiệm nước lợ và nước biển, nước cấp và nước thải từ nhà máy nuôi tôm được dẫn qua khu vực rừng ngập mặn nhằm cải thiện chất lượng nước tại nhà máy (Musa et al., 2020). Chất lượng nước đóng vai trò then chốt cho sự thành công của hoạt động nuôi trồng thủy sản. Do đó, việc giám sát và đánh giá chất lượng nước trong ao nuôi và vùng nước lân cận là vô cùng quan trọng (Naylor et al., 2021). Nhiệt độ nước ảnh hưởng lớn đến mức tiêu thụ oxy, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Guan et al., 2003; Bastos et al., 2018). Mức nhiệt độ không phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia được ghi nhận tại vị trí 5 (ao xử lý nước thải) – nơi không có sinh vật nuôi. Khu vực rừng ngập mặn (vị trí 6) được sử dụng để xử lý nước thải có nhiệt độ thấp hơn. Do đó, biến thiên nhiệt độ không liên quan đến việc giám sát chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu này. Kết quả phân tích PCA (hình 3) củng cố thêm cho kết luận này.
Độ trong đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quang hợp và sản lượng sinh khối trong ao nuôi (Abdel-Raouf et al., 2012). Độ trong của nước được xác định bởi độ đục, chất rắn lơ lửng và điều kiện thời tiết [Liu và cộng sự, 2020]. Phân tích PCA cho thấy độ trong là một trong những thông số quan trọng để đánh giá chất lượng nước. Mặc dù không có sự khác biệt đáng kể về độ trong giữa các địa điểm, nhưng địa điểm 1 và 6 có độ trong cao hơn (nhưng không đáng kể). Điều này có thể do đặc điểm của hệ thống rễ cây ngập mặn có khả năng giữ lại các hạt và trầm tích (Kida & Fujitake, 2020). Dư lượng nuôi trồng thủy sản có thể làm thay đổi độ pH của nước, khiến nó trở nên axit hoặc kiềm hơn (Marimuthu et al., 2019). Trong nghiên cứu này, giá trị pH đo được nhỏ hơn 6, ở mức độ axit có thể gây tử vong cho sinh vật dưới nước (Velma et al., 2009). Do đó, cần quản lý cẩn thận độ pH trong nuôi trồng thủy sản. Bổ sung natri bicarbonate vào nước có thể giúp tăng độ pH, phù hợp hơn cho nuôi tôm (Zhang et al., 2017).
Mức độ mặn trong nghiên cứu này thấp hơn 27 ppt, không đạt mức tối thiểu 27 ppt theo tiêu chuẩn quốc gia đối với nước cấp III. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Zhang et al. (2017), độ mặn thấp dường như không ảnh hưởng đến quy định thẩm thấu, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei. Thậm chí, nếu quy trình thích nghi được thực hiện tốt, loài này có thể phát triển ở vùng nước mặn nội địa với độ mặn thấp tới 1 ppt (Allen, 2004). DO đóng vai trò thiết yếu trong sản xuất nuôi trồng thủy sản (Boyd, 2003; Rahman et al., 2020). Mức DO tối ưu cho các nghề cá nói chung dao động từ 4 đến 5 mg/L (Boyd, 2017). Nồng độ DO dưới 2,0 mg/L có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và dẫn đến nguy cơ tử vong cao cho tôm (Ferreira et al., 2011). Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ DO tại tất cả các địa điểm lấy mẫu đều tuân thủ theo hướng dẫn nuôi trồng thủy sản thâm canh (Cheng et al., 2003) và tiêu chuẩn chất lượng cho vùng nước ven biển (Siringoringo et al., 2018). Trong nuôi tôm thâm canh, thức ăn thương mại thường được sử dụng để đáp ứng kế hoạch tăng trưởng cụ thể và rút ngắn thời gian thu hoạch (Dauda et al., 2019). Tuy nhiên, việc sử dụng thức ăn quá mức có thể dẫn đến dư thừa chất thải hữu cơ và làm tăng mức TOM trong ao (Turcios & Papenbrock, 2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy mức TOM tại tất cả các địa điểm lấy mẫu đều cao hơn đáng kể so với tiêu chuẩn chất lượng nước.
Nồng độ chất dinh dưỡng trong nước tăng theo sự gia tăng của chất hữu cơ (Lusiana et al., 2020). Nitơ và phốt phát là hai chỉ số phổ biến để đánh giá mức độ phú dưỡng và được chứng minh là có liên quan mật thiết đến sự phát triển của thực vật phù du (Lv et al., 2011; Mahmudi et al., 2020). Phốt phát tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng chỉ orthophosphate mới có thể được vi sinh vật trong nước sử dụng trực tiếp (Lusiana et al., 2019; Mahmudi et al., 2019). Nồng độ orthophosphate trong các mẫu đo được khá thấp so với mức tối đa 5 mg/L theo tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước (Lusiana et al., 2020). Do sản xuất thức ăn tự nhiên bị hạn chế trong hệ thống ao thâm canh, việc sử dụng thức ăn thương mại sẽ dẫn đến gia tăng hàm lượng nitơ và phốt phát (Dauda et al., 2019). Trong số ba dạng nitơ được xem xét trong nghiên cứu này, hàm lượng nitrit và amoniac được phát hiện vượt quá tiêu chuẩn chất lượng nước dùng cho nuôi trồng thủy sản. Nồng độ amoniac cao trong nước có thể gây hại cho mang, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và lột xác của tôm, đồng thời làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu (Shaari et al., 2011). Nếu quá trình chuyển đổi amoniac thành nitrat bị ức chế, nitrit sẽ tích tụ và làm giảm khả năng miễn dịch của tôm, khiến chúng dễ bị nhiễm vi rút Vibrio hơn (Tseng & Chen, 2004; Widanarni et al., 2020). PCA là phương pháp phân tích đa biến cổ điển giúp xác định và giảm thiểu các biến số ảnh hưởng đến chất lượng nước bằng cách giảm kích thước của các bộ dữ liệu lớn (Jolliffe & Cadima, 2016). Các nghiên cứu trước đây thường thu được từ ba đến sáu thành phần chính (Banda & Kumarasamy, 2020; Yang et al., 2020).
PCA trong nghiên cứu này đã trích xuất bốn thành phần chính, giải thích 82,652% tổng biến đổi về chất lượng nước. TOM, nitrat, nitrit và amoniac có hàm lượng cao và được chọn làm thành phần chính đầu tiên. Những thông số này là những biến số môi trường cơ bản trong nuôi tôm [Llario và cộng sự, 2019; Xu và cộng sự, 2020]. Trong khi đó, độ trong, độ mặn, độ pH có tải trọng cao và được chọn ở thành phần chính thứ hai. Các thông số này được coi là chỉ số chung về chất lượng nước, không chỉ trong các ao Chỉ số ô nhiễm ở cửa vào (địa điểm 1), ao chứa, ao xử lý nước thải và khu vực rừng ngập mặn được phân loại là ‘ô nhiễm nhẹ’. Tình trạng ô nhiễm tại đây chịu ảnh hưởng bởi nitrit và amoniac vượt quá tiêu chuẩn chất lượng nước (Bộ Môi trường, 2001). Ao nuôi siêu thâm canh có giá trị chỉ số ô nhiễm cao nhất (được phân loại là ‘ô nhiễm vừa phải’). Chỉ số ô nhiễm cao ở các địa điểm 3 và 4 là do các địa điểm này là nơi tích tụ các vật liệu hữu cơ dưới dạng thức ăn thừa, phân tôm và sinh vật phù du chết [Musa và cộng sự, 2020]. Thức ăn cho tôm là nguồn chất hữu cơ chính, dễ hòa tan, lắng đọng và phân hủy dưới đáy nước (Widanarni et al., 2010; Hidayat, 2017). Phòng thí nghiệm nước lợ và nước biển sử dụng hệ thống siêu thâm canh và hệ thống canh tác càng thâm canh thì càng cung cấp nhiều thức ăn đầu vào và độ phong phú của quần thể sinh vật càng cao [Anras và cộng sự, 2010]. Điều này ảnh hưởng đến lượng chất thải trao đổi chất và thức ăn thừa của tôm lắng đọng trong nước ao [Attasat và cộng sự, 2013]. Cho ăn nhân tạo trong ao có thể làm thay đổi điều kiện của các hợp chất nitơ trong nước [Dauda và cộng sự, 2019].
Chỉ số ô nhiễm tại ao thải (địa điểm 5) thấp hơn so với ao nuôi siêu thâm canh. Điều này là do sự pha loãng của nước cửa sông ảnh hưởng, vì cửa ngăn trong ao thải này đã mở trong quá trình đo. Chỉ số ô nhiễm ở khu vực rừng ngập mặn thấp là do rừng ngập mặn hấp thụ chất hữu cơ. Sự lắng đọng trong các ao thải và sự tích tụ chất hữu cơ của cây ngập mặn làm giảm hàm lượng chất hữu cơ dư thừa trong nước [Bao và cộng sự, 2013; Hossain và Nuruddin, 2016]. Phòng thí nghiệm nước lợ và nước biển sử dụng hệ thống tưới sinh thái nuôi trồng thủy sản, tận dụng chất thải ao nuôi bằng cách đưa nước thải qua khu vực rừng ngập mặn, sau đó tái sử dụng làm nguồn nước cho các ao nuôi thâm canh. Do có diện tích rừng ngập mặn nên chất thải do nuôi tôm tạo ra có thể được tái sử dụng một phần làm nguồn nước cho nuôi trồng thủy sản. Điều quan trọng cần lưu ý là nguồn cung cấp nước cho nuôi tôm không chỉ được lấy từ nước thải đã qua xử lý mà còn từ nước thủy triều và cửa sông. Ba nguồn này mang lại chất lượng nước tốt do nước thải được pha loãng bởi nước biển và cửa sông.
Kết Luận
Nuôi tôm thâm canh mang lại lợi ích kinh tế nhưng cũng dẫn đến nhiều vấn đề về môi trường, đặt ra nghi vấn về tính bền vững của hoạt động này. Giải pháp lồng ghép nuôi tôm với rừng ngập mặn được xem là tiềm năng để khắc phục những vấn đề môi trường do nuôi tôm thâm canh gây ra. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy nhiệt độ, DO và nồng độ nitrit trong nước khác nhau đáng kể giữa các vị trí lấy mẫu, trong khi độ trong suốt, pH, độ mặn, nitrat, amoniac, orthophosphate và TOM thì không. Tuy nhiên, phân tích PCA chỉ ra rằng độ trong suốt là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng nước chung của ao. Chỉ số ô nhiễm cao nhất được tìm thấy ở các ao nuôi tôm thâm canh (vị trí 5 và 6), được phân loại là ô nhiễm vừa phải. Trong khi đó, các khu vực khác, bao gồm cả khu vực rừng ngập mặn, được xếp vào loại ô nhiễm nhẹ. Phát hiện này cho thấy sự hiện diện của rừng ngập mặn có thể cải thiện chất lượng nước thải nuôi trồng thủy sản, nhưng chỉ số ô nhiễm vẫn chưa đạt mức ‘tốt’. Do đó, nên lắp đặt một nhà máy xử lý nước thải để hỗ trợ hệ thống nuôi trồng thủy sản tổng hợp.
Theo Mohammad Mahmudi, Muhammad Musa, Alamanda Bunga, Nur Azlina Wati, Sulastri Arsad, Evellin Dewi Lusiana
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Hiệu quả của dầu tảo như một thành phần thức ăn để phát triển khẩu phần trưởng thành cho tôm sú bố mẹ Penaeus monodon (Fabricius)
- Thông số di truyền và so sánh đặc tính chống chịu stress ở các dòng tôm thẻ chân trắng khác nhau
- Ảnh Hưởng Của Stress Lạnh Đến Đặc Tính Hemolymp Của Tôm Thẻ Chân Trắng