Chuyên gia trong ngành tôm, Tiến sĩ Robins McIntosh giải thích về Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) và mối liên quan của nó đối với ngành nuôi tôm toàn cầu
Tiến sĩ Robins McIntosh, Phó chủ tịch tập đoàn Charoen Pokphand Foods, có trụ sở tại Thái Lan và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nuôi tôm trên toàn cầu. Trong cuộc trò chuyện gần đây với tạp chí Advocate, ông đã nói về sự phức tạp của Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), một trong những nguyên nhân chính gây bệnh cho tôm ở châu Á và trên toàn thế giới.
EHP xuất hiện đầu tiên trên tôm sú (Penaeus monodon) vào cuối những năm 1980 và sau đó được xác nhận trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) vào năm 2004 tại Thái Lan. Tuy nhiên, nó nhanh chóng lan ra toàn cầu và gây khó khăn trong việc chẩn đoán và kiểm soát do tính chất khó nhận biết của nó.
Tiến sĩ McIntosh tập trung thảo luận về tác động của EHP đối với các trại giống tôm, đồng thời nhấn mạnh sự quan trọng của các biện pháp an toàn sinh học, việc sử dụng tôm bố mẹ được chứng nhận SPF, và khó khăn trong quá trình khử trùng và giám sát để giảm thiểu tác động của bệnh.
Ông cũng giải thích về mối quan hệ cộng sinh giữa EHP và Bệnh Phân Trắng, tập trung vào vai trò của vi khuẩn kỵ khí, đặc biệt là Propionigenium. Cụ thể, ông nói rõ rằng căng thẳng như một chất xúc tác, và mức oxy hòa tan rất quan trọng trong việc kiểm soát các đợt bùng phát. Ông cũng đề cập đến sự hiện diện của EHP ở châu Mỹ, giải thích rằng sự khác biệt trong mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào căng thẳng và mật độ thả giống.
Dưới đây là bản dịch của cuộc trò chuyện với Tiến sĩ McIntosh.
Bào tử Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) trong gan tụy của tôm bị nhiễm bệnh.
Lịch sử của EHP
Về lịch sử của Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), nhiều người có xu hướng gọi nó là một mầm bệnh mới, và mặc dù có sự đồng thuận này, nhưng thực tế là EHP đã tồn tại từ khá lâu. Đã có ghi nhận về sự xuất hiện của mầm bệnh giống EHP từ cuối những năm 1980 trên tôm sú (Penaeus monodon). Tuy nhiên, EHP được chính thức mô tả và xác định đầu tiên trên tôm thẻ ở Thái Lan vào năm 2004. Và lần đầu tiên tôi phát hiện bệnh EHP là vào năm 2011 tại Thái Lan, khi đã xuất hiện các trường hợp chắc chắn là do EHP gây ra.
Sau đó, vào năm 2012, trong cuộc họp GOAL tại Bangkok, tôi đã dẫn Tiến sĩ Donald Lightner đến một phòng thí nghiệm và chúng tôi cùng nhau quan sát EHP trên tôm bị bệnh. Chúng tôi quan sát các cụm phần tử nhỏ trong gan tụy (HP). Ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy nó và thực sự không thể xác định được nó. Chúng tôi chỉ biết rằng những thứ này đang xuất hiện trong gan tụy của tôm bị nhiễm bệnh và các vấn đề khác cũng xảy ra cùng lúc. Vì vậy, tại thời điểm đó, EHP đã xuất hiện, nhưng chưa có phương pháp chẩn đoán hoặc nhận diện cụ thể nào về nó. EHP nhanh chóng lây rộng sang Trung Quốc hoặc đã hiện diện ở Trung Quốc trong giai đoạn từ 2012–2013, thời điểm mà ngành nuôi tôm ở Trung Quốc cũng đang gặp những thách thức lớn, nhưng nó chưa được mô tả đầy đủ hoặc xác định vào thời điểm đó. Tuy nhiên, khi nhìn lại, người ta nhận ra rằng tất cả những vấn đề này đều liên quan đến EHP.
Đồng thời, chúng tôi đã tìm thấy các cấu trúc trong ruột giống như gregarines (một nhóm nguyên sinh động vật ký sinh trong tôm và các động vật thủy sinh khác).
Theo thời gian, chúng tôi bắt đầu hiểu rằng những cấu trúc giống như gregarine, vi nhung mao của các tế bào biểu mô ống gan tụy (Aggregated Transformed Microvilli – ATM), có liên quan đến EHP, và mặc dù chúng được quan sát thấy ở nhiều nơi nhưng người ta không nhận ra chúng là do EHP gây ra. PCR chưa xuất hiện vào thời điểm đó, vì vậy việc xét nghiệm mầm bệnh được thực hiện bằng cách sử dụng kính hiển vi để tìm kiếm những bào tử EHP trong HP. Một lần nữa, rất khó để xác định EHP, nhưng việc nhận diện sẽ trở nên khả thi hơn khi có được sự hỗ trợ của các công nghệ tiên tiến và sự hiểu biết sâu rộng về đặc điểm cụ thể của chúng.
Vi nhung mao của các tế bào biểu mô ống gan tụy (ATM) là các cấu trúc giống như gregarine thường được quan sát thấy trong gan tụy của tôm bị nhiễm bệnh.
Người ta cũng lưu ý rằng những con tôm này một phần nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng chậm của quần thể với hệ số biến thiên (CV) cao, nhưng dường như không gây ra bất kỳ vấn đề nào về tỷ lệ sống.
Hiện nay, việc sử dụng bào tử để chẩn đoán không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả 100%, vì EHP có hai giai đoạn. Đầu tiên là giai đoạn hình thành bào tử, trong đó có các bào tử mà bạn có thể quan sát được. Tiếp theo là giai đoạn phát triển của bào tử, trong đó có các cấu trúc giống như mô HP nên bạn không thể xác định được chúng thông qua quan sát bình thường. Đối với giai đoạn phát triển của bào tử, bạn phải sử dụng PCR hoặc kỹ thuật lai tại chỗ để xác định chúng, khi bào tử ở giai đoạn này, thường xuyên xảy ra các tình trạng xác định sai về sự hiện diện của EHP.
Theo thời gian, chúng tôi bắt đầu thấy EHP xuất hiện ở nhiều địa điểm khác nhau, chắc chắn là ở Việt Nam, Philippines, Indonesia, … và bắt đầu tấn công Ấn Độ vào năm 2015 hoặc 2016, và sự xuất hiện của EHP luôn luôn liên quan đến việc vận chuyển tôm bố mẹ. EHP lây truyền thông qua tôm, đây là con đường lây nhiễm mà chúng ta biết đến hiện tại. Có thể có những nguồn lây nhiễm khác, nhưng chúng chưa được xác định hoặc chưa được chẩn đoán vào thời điểm này. Chắc chắn rằng hầu hết các nguồn lây nhiễm EHP ở châu Á và trên thế giới đều thông qua việc vận chuyển tôm. Vì PCR không có sẵn để thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán EHP, nên chúng đã xâm nhập vào nhiều quốc gia thông qua việc vận chuyển tôm bố mẹ.
Vào thời điểm đó, Tiến sĩ Lightner hoàn toàn dựa vào kính hiển vi và đã có những sai sót. Cho đến khi kỹ thuật PCR phát triển cho EHP vào năm 2014, chúng tôi mới có thể chẩn đoán EHP một cách chắc chắn. Trước đó, các mồi đầu tiên được thiết kế cho nhiều loại vi khuẩn khác nhau, không chỉ riêng EHP, điều này gây ra nhiều kết quả dương tính giả. Các mồi EHP cụ thể được phát triển bởi phòng thí nghiệm của Tiến sĩ Tim Flegel phối hợp với các nhà nghiên cứu khác ở Anh. Những đoạn mồi này được phát triển dựa trên việc nhận diện một phần cụ thể của chuỗi gen trong thành bào tử của EHP, vì vậy nó đặc hiệu hơn, giúp giảm thiểu khả năng xuất hiện các kết quả dương giả. Trước khi có những đoạn mồi cụ thể này, các thử nghiệm kiểm tra thức ăn tôm hoặc các thành phần thức ăn như bột krill, bột cá hoặc các thành phần khác hầu hết đều cho kết quả dương tính giả với EHP.
Vậy, điều gì đã xảy ra trong trường hợp của tôi? Đối với đàn tôm bố mẹ, chúng tôi đã xây dựng một chương trình nhân giống rất nghiêm ngặt về an toàn sinh học: Mọi kết quả dương tính với EHP đều được loại bỏ. Vì EHP hiện diện trong gan tụy tôm, nên cách kiểm tra mà không làm tổn thương tôm là thông qua các mẫu phân, vì vậy bạn chỉ đang kiểm tra sự xuất hiện của bào tử. Nếu không có bào tử, bạn sẽ không thể đạt được kết quả dương tính, điều này có thể dẫn đến kết quả âm tính giả. Mặt khác, nếu cho tôm bố mẹ ăn thức ăn dương tính với EHP và kiểm tra phân, phân sẽ cho kết quả dương tính và đó là kết quả dương tính giả. Trước khi chúng tôi thực sự hiểu được điều này – có lẽ là vào khoảng năm 2014 – có lần chúng tôi nhận được báo cáo rằng một trong những hệ thống nuôi tôm bố mẹ của chúng tôi dương tính với EHP. Chúng tôi đã cho xét nghiệm lại và kết quả vẫn là dương tính. Và vì vậy, chúng tôi đã phải hy sinh tôm bố mẹ trong một số hệ thống, giá trị có lẽ lên đến hơn 1 triệu USD.
Nhưng sau đó, tôi nảy ra ý tưởng kiểm tra HP vào lần sau, khi chúng tôi gặp tình huống tương tự, và kết quả là HP âm tính. Sau đó, thức ăn đã được kiểm tra và kết quả là thức ăn dương tính, chúng tôi nhận ra rằng bạn có thể mắc sai lầm nghiêm trọng nếu chỉ kiểm tra phân. Nếu thức ăn dương tính, phân cũng sẽ dương tính, và có một số loại thức ăn vẫn cho kết quả dương tính, điều này cần phải được nhận biết trong quá trình xét nghiệm. Các loại bột krill và một số loại bột cá cũng có kết quả xét nghiệm dương tính.
Nếu kết quả là dương tính, việc kiểm tra mô HP để xác định xem EHP có hiện diện hay không trở nên quan trọng. Đoạn mồi cụ thể giúp giảm xác suất sai sót trong quá trình chẩn đoán, nhưng vì bào tử chỉ xuất hiện trong phân, nên khả năng sai sót vẫn tồn tại. Điều này có thể dẫn đến kết quả dưới mức chẩn đoán do tôm không hình thành bào tử, hoặc quá mức chẩn đoán do thức ăn dương tính với EHP. Để xác nhận một cách chính xác, bạn phải kiểm tra toàn bộ HP, vì nhiễm trùng có thể tập trung ở một khu vực cụ thể HP và không nhất thiết là phân bố đều trên toàn bộ HP.
Và vì các bào tử phân bố không đều và có thể tồn tại với một tải lượng ít, nên việc kiểm tra mô học phải được thực hiện với sự kiên nhẫn cao, quan sát gan tụy trên nhiều phiến kính để đưa ra chẩn đoán là không có sự hiện diện của bào tử. Trước khi có PCR, nhiều trường hợp nhiễm EHP đã bị bỏ sót do kỹ thuật nhuộm thông thường khó nhìn thấy các bào tử. Tuy nhiên, việc giữ phiến kính trong khoảng vài tuần có thể tăng khả năng nhận biết các bào tử, khiến chúng trở nên rõ ràng hơn nhiều.
Trong lịch sử, EHP gây ra sự tăng trưởng chậm và hệ số biến thiên (CV) cao về kích thước của tôm.
Ban đầu, EHP gây ra sự tăng trưởng chậm với sự thay đổi kích thước lớn (hoặc CV trên 25%). Tôm từ gen CP sẽ có tốc độ tăng trưởng trung bình tối thiểu trên 0,18g mỗi ngày. Bất cứ con tôm nào dưới 0,15 mức tăng trưởng trung bình hàng ngày (ADG) trong hầu hết các trường hợp sẽ là kết quả của nhiễm EHP. Đặc điểm xác định của EHP là sự thay đổi kích thước tương tự như những gì bạn thấy ở Virus hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV) và Hội chứng biến dạng và còi cọc trên tôm (RDS).
Một điều khác mà tôi bắt đầu nhận thấy là EHP sẽ tấn công sớm hoặc muộn trong chu kỳ sản xuất. Nếu một trang trại báo cáo rằng tôm tăng trưởng chậm sau 30 ngày, có thể sau 30 ngày kích thước bình thường của chúng là 2,5g, nhưng bây giờ sau 30 ngày, kích thước tôm sẽ nhỏ hơn 1g – đây thường là dấu hiệu cho thấy nhiễm trùng đến từ trại giống. Nếu EHP đến từ môi trường, tốc độ tăng trưởng không bị ảnh hưởng cho đến 45-50 ngày. Và nếu là từ môi trường, nhiều trang trại ở Việt Nam và các quốc gia khác sẽ xây dựng chiến lược nỗ lực vượt qua dịch bệnh để sản xuất ra tôm có thể đạt kích thước thu hoạch trong 70-80 ngày.
Sau đó, bằng cách sử dụng kỹ thuật real-time PCR, chúng tôi biết được rằng mức DNA EHP là yếu tố quyết định xem có bệnh hay không. Ở nồng độ từ 101 đến 103, tôm chỉ đơn thuần là vật mang EHP và không có dấu hiệu bệnh rõ rệt, nhưng khi mức độ tăng lên hơn 103, tôm bắt đầu tăng trưởng chậm hơn. Nếu mức độ đạt 106 đến 108, tốc độ tăng trưởng của tôm sẽ giảm đáng kể.
Nếu EHP xuất hiện trong trại giống và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm trong 30 ngày đầu, việc thu được lợi nhuận kinh tế trở nên khó khăn. Trong 30 ngày đầu tiên, tốc độ tăng trưởng của tôm là đầu mối tốt nhất để xác định EHP có nguồn gốc từ trại giống hay từ môi trường ao nuôi.
Chúng ta cũng phải đưa ra giả định rằng nếu EHP được phát hiện trong trại giống hoặc ao nuôi, thì nguy cơ lây nhiễm vẫn tồn tại trong cả trại giống và ao nuôi đó, trừ khi các biện pháp cụ thể được thực hiện để loại bỏ các bào tử khỏi trại giống và/hoặc ao nuôi.
Trại giống tôm và EHP
Cần phải khử trùng nếu có sự nghi ngờ hoặc xác định có sự hiện diện của EHP trong trại giống, và việc bất hoạt hóa bào tử có thể là một thách thức lớn. Có báo cáo cho rằng 35-40 ppm clo, thuốc tím hoặc formalin sẽ khử trùng trong điều kiện phòng thí nghiệm; nhưng kinh nghiệm cho thấy những chất khử trùng này không hiệu quả trong điều kiện thực tế, một môi trường có màng biofilm bảo vệ, v.v.
Để khử trùng bề mặt trong trại giống, cần sử dụng dung dịch clo đã axit hóa (200 ppm/pH 4.0) hoặc dung dịch bazơ như NaOH (pH >12). Những dung dịch này không chỉ phá hủy màng biofilm mà còn phá hủy thành bào tử. Để đảm bảo sự hiệu quả, quá trình khử trùng cần áp dụng cho toàn bộ cơ sở, bao gồm cả hồ chứa và đường ống.
Trong trường hợp trại giống đã bị nhiễm EHP, người vận hành cần xác định cách EHP xâm nhập vào trại giống. Các nguồn lây nhiễm rõ ràng nhất bao gồm tôm bố mẹ, thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ (bất cứ loài ăn lọc nào cũng có thể mang EHP) và nguồn nước. Để kiểm tra nước, một vài lít nước có thể được lọc qua bộ lọc Whatman, sau đó có thể kiểm tra bằng PCR. Tuyệt đối không được sử dụng tôm bố mẹ nuôi trong ao từ các vùng bị nhiễm bệnh và tốt nhất nên sử dụng tôm bố mẹ SPF được chứng nhận từ các nguồn gốc uy tín. Một nguồn lây nhiễm chính khác là các loài ăn lọc như giun nhiều tơ, động vật hai mảnh vỏ và artemia trưởng thành, chúng thường được sử dụng làm thức ăn cho tôm bố mẹ trong giai đoạn trưởng thành. Tốt nhất là tránh sử dụng những loại thức ăn này hoặc sử dụng thức ăn được nuôi cấy từ các nguồn đã được xác nhận là sạch bệnh.
Tại Thái Lan, chúng tôi thực hiện kiểm tra nước hàng tháng hoặc hàng tuần tùy thuộc vào lịch sử của trại giống. Và bạn phải sử dụng tôm bố mẹ SPF được chứng nhận. Điều quan trọng không chỉ là một xét nghiệm PCR mà còn là lịch sử của cơ sở sản xuất. Vì vậy, nếu tôm bố mẹ đến từ một cơ sở có lịch sử không nhiễm EHP thì nó sẽ không có EHP. Và phân của tôm bố mẹ cũng phải được kiểm tra, có khả năng ban đầu bạn sẽ bỏ sót vì nó có thể là bào tử. Ngoài ra, mức độ bào tử hoặc DNA rất quan trọng để có kết quả xét nghiệm dương tính, và một lần nữa, với tôm bố mẹ, bạn không thể kiểm tra gan tụy và giữ cho chúng sống sót. Vì vậy, điều thực sự quan trọng là sử dụng tôm bố mẹ từ một cơ sở được chứng nhận thực sự.
Sau khi có tôm bố mẹ sạch bệnh, chúng tôi đưa vào trại giống sạch, sử dụng nguồn nước nước sạch. Chúng tôi không ở khu vực EHP nên nước rất sạch. Bây giờ chúng tôi chỉ cần đảm bảo rằng thức ăn cho tôm bố mẹ không có EHP. Chúng tôi không sử dụng giun nhiều tơ sống, Artemia sống hoặc sinh khối Artemia được sản xuất trong vùng nhiễm EHP. Và chắc chắn rằng việc kiểm tra tất cả những loại thức ăn này bằng PCR để đảm bảo thức ăn sạch bệnh không bao giờ là dư thừa.
Lựa chọn tốt nhất là nuôi giun nhiều tơ hoặc sử dụng giun nhiều SPF hoặc không chứa mầm bệnh đã được chứng nhận. Hoặc bạn có thể nấu giun nhiều tơ ở nhiệt độ 75-80°C. Tuy nhiên, theo tôi, điều này làm suy giảm chất lượng của giun nhiều tơ, nhưng bù lại nó sẽ bất hoạt bào tử EHP. Mực nhìn chung là an toàn, nhưng tôi sẽ không sử dụng bất kỳ loài hai mảnh vỏ nào (hàu, trai, vẹm), vì bất kỳ loài ăn lọc nào cũng có khả năng lọc và giữ lại bào tử EHP, và trở thành vật mang EHP. Giun nhiều tơ ăn thức ăn trong trầm tích, có thể mang bào tử EHP vào ruột của chúng. Đó là tất cả các cách lây nhiễm EHP vào tôm bố mẹ của bạn.
Các trại giống tôm chỉ nên sử dụng giun nhiều tơ được chứng nhận sạch bệnh trong khẩu phần ăn của tôm bố mẹ do nguy cơ lây nhiễm EHP cũng như các mầm bệnh khác. Ảnh của Alexander Semenov, Wikimedia Commons.
Nếu bạn cẩn thận với thức ăn, bạn đã khử trùng trại giống, bạn có nguồn nước sạch thì bạn sẽ duy trì tình trạng không có EHP trong trại giống. Bây giờ, nếu bạn đang ở trong khu vực bị nhiễm bệnh cao như một số khu vực trại giống ở Ấn Độ, Việt Nam hoặc Thái Lan, nơi có sự kết hợp giữa trại giống và trang trại, và EHP có trong môi trường của bạn, bạn có thể sẽ tìm thấy EHP trong nước của trại giống. Do đó, việc khử trùng nước trong trại giống là cần thiết.
Điều này có thể rất khó khăn do màng biofilm và các yếu tố khác. Mặc dù chúng tôi khẳng định rằng có thể thực hiện điều này, nhưng khi xem xét lịch sử hoặc quan sát các trại giống, chúng tôi nhận thấy rằng quá trình khử trùng không được thực hiện đúng cách. Nếu việc này dễ dàng như việc sử dụng clo 40 ppm trên toàn bộ trại giống, chúng ta sẽ không phải đối mặt với vấn đề lớn như hiện nay. Do đó, để thực sự giảm khả năng lây nhiễm EHP từ nước trong trại giống, phương pháp tốt nhất là sử dụng lọc vật lý thay vì phương pháp khử trùng hóa chất. Bào tử của EHP có kích thước nhỏ hơn 2 micron, vì vậy bạn cần sử dụng thiết bị lọc siêu mịn để loại bỏ chúng khỏi nước. Hơn nữa, bộ lọc cần được bảo dưỡng định kỳ để đảm bảo hiệu suất lọc được duy trì.
Nếu bạn thực hiện quá trình lọc nước một cách chính xác, đảm bảo tôm bố mẹ, thức ăn, và nước đều sạch, và áp dụng các biện pháp để ngăn chặn bào tử xâm nhập vào cơ sở, trại giống có thể sản xuất hậu ấu trùng không chứa EHP. Tuy nhiên, việc giám sát là quan trọng và nên được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là bằng cách kiểm tra tôm post (PL) định kỳ.
Một vấn đề khác khi bạn kiểm tra tôm PL, nếu trại giống thực sự bị nhiễm EHP và nhiễm ở mức độ thấp, thì nó có thể sẽ ở dưới mức phát hiện. Vì vậy, điều mà tôi luôn làm là gây căng thẳng cho tôm PL, bây giờ tôi sẽ thảo luận về việc căng thẳng gây ra EHP như thế nào. Nếu bạn lấy một túi PL và vận chuyển chúng cho chính bạn trong thời gian từ 24 đến 28 tiếng, thì sự căng thẳng của việc vận chuyển đó sẽ làm phát hiện EHP. EHP sẽ nhân lên đến mức có thể dễ dàng phát hiện bằng PCR. Khi giám sát các trại giống, chúng tôi sẽ vận chuyển PL cho chính mình và sau đó kiểm tra chúng. Nếu kết quả xét nghiệm âm tính, chúng tôi sẽ có niềm tin lớn hơn rằng tôm của chúng tôi sạch bệnh và sẽ không mang EHP.
Vì vậy, khoảng 11 hoặc 12 năm trước, chúng tôi bắt đầu quan sát dưới kính hiển vi những gì mà chúng tôi gọi là vi nhung mao của các tế bào biểu mô ống gan tụy (ATM), tức là bong tróc ruột. Sau đó, chúng tôi phát hiện ra rằng những ATM này có liên quan đến việc lây nhiễm EHP, giải phóng một số lượng lớn bào tử và làm bong tróc các mô HP.
Tiến sĩ McIntosh quan sát thấy có mối liên quan rõ rệt giữa EHP và bệnh phân trắng (WFD), một bệnh nghiêm trọng khác ở tôm nuôi. Bên trái: gan tụy được cắt ra từ tôm bị nhiễm WFD. Bên phải: những sợi phân màu trắng đặc trưng của bệnh WFD ở mép ao nuôi tôm.
Bệnh phân trắng đã trở thành một vấn đề đáng kể vào năm 2014 và tiếp tục trở nên nghiêm trọng hơn theo thời gian. Nhưng năm 2014 không phải là năm đầu tiên bệnh phân trắng được báo cáo. Lần đầu tiên bệnh phân trắng được báo cáo là vào đầu những năm 2000 trên tôm sú P. monodon. Bệnh phân trắng luôn đi kèm với nhiễm EHP. Và khi phân trắng xuất hiện, bệnh còn nghiêm trọng hơn so với chỉ riêng EHP, lúc này tỷ lệ sống cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhân gây ra bệnh phân trắng là gì. Chúng tôi biết EHP là nguyên nhân chính, nhưng còn điều gì nữa?
Tôi nhận thấy bệnh phân trắng thường xảy ra ở những ao có đáy bẩn và ao có lớp lót bạt bị hỏng. Việc lớp lót bị hỏng tạo ra tình trạng yếm khí bên dưới lớp lót và tràn vào ao. Và điều này thường xảy ra với những trang trại có lớp lót rất mỏng được sử dụng để tiết kiệm chi phí. Trong những ao này, bạn có nhiều khả năng tìm thấy phân trắng có EHP nhất. Và nếu nông dân xử lý những ao như vậy bằng vi khuẩn quang hợp thì tình trạng phân trắng có thể giảm bớt hoặc thậm chí tiêu diệt được phân trắng.
Vì vậy, để tìm nguyên nhân gây ra phân trắng, tôi bắt đầu tập trung vào vi khuẩn kỵ khí. Phòng thí nghiệm của chúng tôi đã thu thập vi khuẩn kỵ khí, nuôi cấy, sau đó phân lập và tiêm những vi khuẩn đó vào tôm có và không có EHP. Khi chúng tôi thêm một số loại vi khuẩn nhất định vào tôm nhiễm EHP, chúng tôi thu được phân trắng rất nhanh. Nếu chúng tôi thêm vi khuẩn không có EHP thì sẽ không xuất hiện phân trắng, do đó, rõ ràng là có mối liên hệ giữa chúng. Chúng tôi xác định vi khuẩn tạo ra phân trắng bằng EHP, đó là vi khuẩn kỵ khí có tên Propionigenium. Kể từ khi chúng tôi nghiên cứu Propionigenium, các vi khuẩn khác trong chi Vibrio cũng đã được báo cáo là tạo ra phân trắng, nhưng chỉ khi có sự xuất hiện của EHP.
Vi khuẩn kỵ khí Propionigenium sp. đã được xác định là có liên quan đến sự khởi phát của bệnh phân trắng, cùng với EHP.
Hiện tại, chúng tôi đang phân lập vi khuẩn kỵ khí, và Tiến sĩ Kallaya từ Đại học Mahidol ở Thái Lan cũng đã thu thập phân trắng từ một số khu vực ở Thái Lan. Tiến sĩ Kallaya đã thực hiện nghiên cứu metagenomic (công cụ nổi tiếng và được sử dụng phổ biến nhất để tìm kiếm và căn chỉnh DNA) của phân để xác định vi khuẩn. Và loại vi khuẩn mà tiến sĩ tìm thấy phổ biến ở tất cả những con tôm có phân trắng là Propionigenium.
Tôi đã thu thập phân trắng ở Guatemala và cũng tìm thấy vi khuẩn Propionigenium. Nó chắc chắn là nguyên nhân chính gây ra bệnh phân trắng. Đó là vi khuẩn kỵ khí và nói chung, bạn sẽ tìm thấy nó trong các ao có đáy bẩn với một số khu vực kỵ khí, thức ăn thừa, những nơi có khu vực kỵ khí sẽ cung cấp môi trường sống cho Propionigenium. Khi vi khuẩn hoặc chủng Vibrio xâm nhập vào tôm bị nhiễm EHP, nó sẽ làm tăng tác động của EHP và dẫn đến bệnh phân trắng, một biến thể nặng hơn của EHP.
Khía cạnh quan trọng nhất theo quan điểm của tôi với tư cách một người nuôi tôm là đảm bảo tôm bố mẹ không mang Propionigenium. Bởi vì nếu tôm bố mẹ mang vi khuẩn này đến trại giống, chúng sẽ truyền nó cho tôm giống. Bây giờ, có thể tôm PL không có EHP nên không có ảnh hưởng. Nhưng nếu tôm giống mang Propionigenium rơi vào ao có EHP, thì bệnh phân trắng sẽ xuất hiện và tình hình còn tồi tệ hơn nhiều. Vì vậy, đây là một bước kiểm tra khác mà các trại giống có thể thực hiện để đảm bảo rằng trại giống của họ không lây truyền vi khuẩn này.
Ở Châu Mỹ, EHP có hiện diện ở mức độ thấp nhưng dường như không gây bệnh. Nó đã được tìm thấy ở nhiều nước nuôi tôm ở châu Mỹ. Một số quốc gia khác đã được đề cập, nhưng EHP hầu như không được công bố rộng rãi vì không có bệnh nào liên quan đến nó. Nó hiện diện ở tần số thấp trong HP và không nhân lên trong HP, chỉ là tải lượng thấp. Đây có phải là một loại EHP khác không? Chúng tôi đã lấy EHP từ Guatemala và gửi nó đi phân tích trình tự và nó giống với EHP Châu Á. Ít nhất là không có sự khác biệt về loài EHP ở Guatemala.
Tại sao nó lại nghiêm trọng ở châu Á mà không phải ở châu Mỹ? Đối với tôi, đó là một câu hỏi quan trọng cần đặt ra khi tìm hiểu về EHP. Và tôi kết luận rằng tất cả là do căng thẳng và mật độ thả giống. Vì vậy, hãy nhìn vào trường hợp của Guatemala, một quốc gia nuôi tôm “thâm canh” ở châu Mỹ và nước này đang gặp phải các vấn đề nghiêm trọng về EHP, giống như châu Á.
Vì vậy, tôm bố mẹ là của Mỹ, EHP và hệ thống nuôi thâm canh là của châu Á. Dịch bệnh là giống nhau. Tuy nhiên, nếu nuôi bán thâm canh hoặc mật độ thấp, tôm của bạn có thể nhiễm EHP tần số thấp, có thể không phát hiện được và không có bệnh xảy ra, nhưng vẫn tồn tại tác nhân gây bệnh. Nếu chúng ta đưa những con tôm này vào hệ thống nuôi mật độ cao, kết quả sẽ như bệnh EHP ở châu Á. Vì vậy, điều đó khiến tôi tin rằng căng thẳng là nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh.
Hãy quay trở lại một số câu chuyện khác. Có lẽ là vào năm 2016 và EHP đang gây ra nhiều vấn đề ở Thái Lan. Tôi đã đi xem một trang trại có vấn đề về EHP. Họ đang làm rất tốt, hiệu suất của họ cũng rất đáng kể, trong khi một trang trại khác rất gần đó lại là một thảm họa.
Tôi đã hỏi người quản lý trang trại đầu tiên xem họ có bị nhiễm EHP hay không và ông ấy nói có, có vi khuẩn EHP nhưng không có bệnh. Ông bổ sung oxy vào ao thông qua sục khí cơ học. Ông ấy sục khí liên tục và giữ lượng oxy hòa tan (DO) ở mức trên 6 ppm. Ông ấy nói rằng nếu bạn giữ lượng oxy cao thì vật nuôi sẽ tốt, môi trường tốt, tôm ít bị căng thẳng ngay cả khi mật độ cao, và không có bệnh EHP. Vì vậy, tôi đến trang trại khác, trang trại có vấn đề và tôi kiểm tra DO của họ, kết quả là nó dưới 5 ppm và EHP đã chiếm ưu thế. Vì vậy, nếu mức oxy thấp hơn, EHP có xu hướng phát triển mạnh hơn do căng thẳng từ mức DO thấp.
Có thể có nhiều căng thẳng trong ao khiến tình trạng nhiễm EHP nặng hơn và nhân lên trong gan tụy tôm. Lượng oxy thấp là một trong những yếu tố tạo nên căng thẳng, nhưng sunfua, chất hữu cơ cao, nitrit, NH3, CO2 và các yếu tố khác cũng có thể gây căng thẳng. Nhưng sự thật là mật độ thả giống cao hơn và tỷ lệ cho ăn cao hơn sẽ tạo ra nhiều căng thẳng hơn trong ao và mức độ EHP nghiêm trọng hơn trong những ao này.
Để tạo ra một phản ứng nhanh với EHP trong phòng thí nghiệm, chúng tôi đã thực hiện các thử nghiệm cảm nhiễm. Một trong những điều chúng tôi làm với tư cách là nhà sản xuất tôm bố mẹ là cố gắng tạo ra khả năng chịu đựng tốt. EHP thực sự là một thách thức đối với sức chịu đựng của tôm, vì đây không phải là một xét nghiệm sinh học đơn giản, cũng không phải là một thử nghiệm cảm nhiễm đơn giản, phải mất đến vài tuần và thậm chí là vài tháng.
Vậy làm thế nào để kiểm soát mức độ lây nhiễm và các yếu tố khác? Điều này thực sự khó khăn. Và câu hỏi còn lại là liệu tôm có thể chống chịu với EHP được hay không? Tôi nghĩ tốt hơn nên tập trung vào EHP để đưa ra biện pháp quản lý, thay vì tập trung vào các giải pháp di truyền.
Bây giờ chúng ta có thể xem xét việc loại trừ. Một lần nữa, chúng tôi đã nhận thức được rằng khi EHP xâm nhập vào một khu vực, nó sẽ bắt đầu ở mức độ thấp. Có thể khi nó ở mức độ thấp, chúng ta có thể kiểm soát nó tốt hơn, nhưng khi mức độ tăng lên, nghĩa là hết trang trại này đến trang trại khác bị nhiễm bệnh ngày càng nhiều, và tất cả các bào tử được phát tán ra môi trường. Bây giờ mức độ nghiêm trọng tăng lên và đó là lý do tại sao tỷ lệ bùng phát dịch bệnh tăng qua từng năm. Nó bắt đầu ở mức X. Năm sau là X cộng thêm 10%. Năm sau nữa là X cộng thêm 10%, cộng thêm 10% nữa… nó ngày càng cao hơn khi mức độ lây nhiễm trong môi trường tăng lên.
Mọi thứ trở nên khó khăn hơn, vì ngay cả khi chúng ta đang kiểm soát mức độ căng thẳng ở tôm, chúng ta vẫn có khả năng làm cho cơ thể vật nuôi bị nhiễm quá tải mầm bệnh. Vào thời điểm đó, phải có cách để giảm số lượng bào tử EHP, thông qua việc ngừng sản xuất, chúng ta sẽ giảm mật độ thả giống và đảm bảo rằng không có bất kỳ vi khuẩn EHP nào xuất hiện trong ao. Các trại giống nhiễm EHP bắt buộc phải phải đóng cửa, vì nếu chúng ta còn nuôi dưỡng một môi trường có ngày càng nhiều bào tử thì việc giảm căng thẳng càng trở nên khó khăn hơn.
Tôi nhận thấy rằng nitrit là một yếu tố gây căng thẳng đáng kể đối với tôm. Do đó, nếu tôi thêm một chút nitrit vào thử nghiệm cảm nhiễm của mình, tôi có thể tăng tỷ lệ lây nhiễm. Bạn thực sự có thể thu được một con tôm có mức độ nhiễm EHP cao với một ít nitrit trong môi trường nuôi. Các yếu tố gây căng thẳng bao gồm lượng oxy thấp, nitrit, biến động pH, sunfua, axit hữu cơ – bất kể yếu tố căng thẳng là gì đều có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn EHP xâm nhập vào tôm và trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Theo Tiến sĩ Darryl E. Jory
Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/robins-mcintosh-on-everything-you-need-to-know-about-ehp-and-shrimp-farming-part-1/
Biên dịch: Huyền Thoại – Bình Minh Capital
Xem thêm:
- Thay Thế Một Phần Bột Cá Bằng Tảo Chaetomorpha Giúp Cải Thiện Việc Sử Dụng Thức Ăn, Tỷ Lệ Sống, Thành Phần Sinh Hóa Và Axit Béo Của Tôm Post Penaeus monodon
- Đánh Giá Về Virus Gây Hội Chứng Đốm Trắng (WSSV): Mối Đe Dọa Tiềm Tàng Đối Với Nghề Nuôi Tôm Ở Bangladesh Và Một Số Nước Châu Á
- Những Nguy Cơ Của Việc Thâm Canh Quá Mức Trong Nuôi Tôm